Đức Phật thành đạo theo giáo lý Tây Tạng
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy rõ những luật vĩnh cửu ấy phơi bày ra và cảm thấy thương hại cho tất cả chúng sinh phải trôi nổi mãi mãi trong cái tiến trình lòng vòng ấy mà không biết tại sao cũng như chẳng biết thế nào để thoát ra.
Ảnh minh họa |
Siddhartha đã buông bỏ tất cả những gì đã đạt được trong quá trình tu khổ hạnh, trừ ra việc Ngài đã chuẩn bị để vạch ra con đường của riêng mình trong khao khát truy cầu chân lý. Ngài không kể gì đến việc bị mất tất cả đệ tử, Ngài cũng chẳng ngại phải bắt đầu lại từ ban đầu, thay vào đó, Ngài thú nhận mình đã nhầm lẫn, và tiếp tục cuộc truy vấn của chính mình.
Nghệ thuật Tây Tạng mô tả khoảnh khắc ấy với hình ảnh bậc Đại sĩ sắp thành Phật ngồi trên một đống cỏ busa ngay bên dưới những cành tỏa rộng của một cây sung cổ thụ thiêng liêng mà về sau này gọi là cây Bồ-đề hay cây giác ngộ. Chung quanh Ngài ở khắp cả các phương hướng là hàng ngàn quỷ dữ thở ra những ngọn lửa đầy đe dọa cùng những hình hài kỳ dị.
Có những tướng quỷ bắn cung, cầm tên, hay đập vỡ cả những quả núi. Huyền thoại kể rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phải đối đầu với Ma vương (một thuật ngữ Phật giáo nhằm nhân cách hóa sự vô thường và cái chết, thường được gọi là quỷ) cùng với những đạo quân của kẻ này. Ma vương khuyến dụ đức Phật với hy vọng Ngài sẽ từ bỏ sự truy cầu của mình.
Nhưng Đức Phật đã chẳng hề chú ý tới cuộc trình diễn của chúng ma; và, coi mọi sự chỉ là những ảo tưởng của ma thuật, Ngài chẳng hề tỏ ra sợ hãi đạo quân ma. Bậc Đại sĩ sắp thành Phật ấy đã tích tụ đủ công đức và uy lực để chiến thắng mọi cám dỗ.
Khi những mũi tên, và cả những mũi tên lửa nữa, chạm phải hào quang của Ngài, chúng lập tức biến thành hoa và rơi lả tả xuống mặt đất. Đức Phật vẫn tiếp tục thiền định niêm mật.
Bấy giờ Ma vương đổi chiến thuật và cố gắng mơn trớn đức Phật. Ma vương triệu tập một bầy ma nữ ra lệnh cho họ múa những điệu múa hết sức khêu gợi. Nhưng Đức Phật vẫn tiếp tục thiền định: không một điều gì có thể thuyết phục Ngài rời bỏ con đường đã chọn. Cuối cùng, Ma vương đành chấp nhận Phật một mình dưới gốc cây Bồ đề.
Truyền thống Yamantaka của Tây Tạng cho rằng Ngài đã chiến thắng ma quân bằng cách xuất hiện trong những thân Yamantaka nửa đen nửa đỏ; cũng có những kinh văn Tây Tạng khác kể lại câu chuyện rằng Đức Phật bỏ lại nhục thân bên bờ sông Niranjana rồi hiện Pháp thân vào cõi trời Akanisha, ở đó Ngài nhập Đại thủ ấn của cõi Kim cương.
Hiển nhiên, những câu chuyện đó chỉ là những cách thần bí nhằm thể hiện điều đã xảy ra. Sự thật là Đức Phật ngồi một mình dưới cây Bồ-đề và chẳng hề có ai chứng kiến điều gì đã thật sự diễn ra.
Những câu chuyện ấy, cũng như chuyện Chúa Jesus bị cám dỗ trên đỉnh núi, chỉ là những biểu tượng thể hiện các tầng bậc của sự giác ngộ và những trở ngại mà bất kỳ ai cũng sẽ có ngày phải tự mình vượt qua.
Sự nhận thức của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni về chân lý tối hậu của thực tại tuyệt đối đã khai mở theo những tầng bậc giống như một đóa sen nở dần từng lớp lớp tràng hoa. Bậc đầu tiên là một loại suy tưởng an tịnh và buông bỏ, ở đó hành giả thấy vui và an bình nhưng mới chỉ là sự từ bỏ ý thức thường ngày (Ly sinh hỷ lạc).
Ở bậc kế tiếp, đức Phật Thích Ca Mâu Ni trở nên không còn vướng mắc với những dao động của tâm thức và tư tưởng được chuyển hóa để tiến vào một trạng thái an lạc và vui sướng sâu sắc hơn (Định sanh hỷ lạc).
Ở bậc thứ ba, Ngài đạt tới một niềm vui sướng trong trẻo hơn nữa (Ly hỷ diệu lạc) cho đến khi Ngài tiến vào bậc thứ tư và là bậc cuối của tầng ý thức, tại đó, niềm vui cũng nhạt dần, chỉ để lại một dòng tâm thức hết sức an lạc và trong trẻo đến mức có thể trực tiếp cảm nhận được thực tại (Xả niệm thanh tịnh).
Ngài nhớ lại hàng chục ngàn những kiếp quá khứ như thể đã sống lại toàn thể những kiếp sống ấy đến từng chi tiết. Mọi người đều có những ký ức chi tiết ấy nhưng chúng bị tắt nghẽn ở đâu đó trong tâm thức mình.
Chúng ta có thể chứng kiến những người khi bị thôi miên thuật lại chi tiết cuộc đời của ho.
Đôi khi họ nêu ra những sự kiện mà chúng ta có thể kiểm chứng qua những ghi nhận của công chúng. Lại nữa, một lần khi tôi quỳ dưới chân vị thầy của mình, ngài Sai Baba, ở Ấn Độ, tôi đã thấy cuộc đời quá khứ của tôi lướt qua trước mặt mình như một cuộn phim quay nhanh. Sự thật là mọi người đều có thể đạt tới những trạng thái xuất thần mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như những vị trước Ngài và sau Ngài đã tiết lộ cho chúng ta.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một con người. Một số Phật tử cho biết một vài kiếp trước của Ngài được kể lại trong tập truyện Jataka thuộc hệ kinh điển Pali.
Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật của thời đại này, thời Kali Yuga (thời đại suy đồi theo kinh điển Bà-la-môn); trước Ngài đã có Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara Buddha); và bậc Đại giác ngộ của thời đại tiếp theo là Đức Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Có những vị khi đạt tới sự giác ngộ thì dời khỏi dòng sinh tử và không cần phải tái sinh.
Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quyết định trở lại trong dòng sống để dạy loài người về chân lý giải thoát, như Phật Nhiên Đăng đã từng quyết định như vậy; cũng như Đức Phật Di Lặc sẽ quyết định như vậy trong những thế kỷ sắp tới.
Ngài thấy không những thế giới của loài người với những chúng sanh luân chuyển trong nhân giới, thiên giới và địa ngục mà Ngài còn thấy được tất cả những cõi giới của A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh.
Trong tất cả những cõi giới ấy, Ngài thấy tất cả chúng sanh tự gây nên những đau khổ cho chính mình bởi những hành vi của chính mình. Người Thiên Chúa giáo cũng nhận thức được những điều tương tụ trong lời dạy của Jesus, “Người gieo gì thì người gặt nấy”.
Đó chính là công lý tối hậu và nghiệp của một người đi theo người đó từ kiếp này sang kiếp khác cho đến khi đã trả đủ hoặc đã được chuyển hóa về mặt tâm thức. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy rõ những luật vĩnh cửu ấy phơi bày ra và cảm thấy thương hại cho tất cả chúng sanh phải trôi nổi mãi mãi trong cái tiến trình lòng vòng ấy mà không biết tại sao cũng như chẳng biết thế nào để thoát ra.
Pháp có thể biết được, nhưng không bao giờ được bày tỏ một cách trọn vẹn, ngay cả bỏi chính đức Phật. Sự giác ngộ bao gồm một sự an lạc toàn hảo, sự vui sướng trong trẻo và một sự hiểu biết không thể bị lay chuyển khi bạn có được trải nghiệm về chân lý tuyệt đối. Đó là niềm vui vô hạn, niềm an lạc vô hạn và lòng từ vô hạn.
Cuộc chiến đấu đã hoàn toàn kết thúc; Ngài đã nhận biết được sự an lạc tối thượng, mãi mãi; giống như mặt trời Ngài vừa thấy đang mọc lên ở chân trời buổi sáng, Ngài đã hoàn toàn tỉnh thức từ đêm tối của tâm hồn. Không chỉ nhìn thoáng qua chân lý, Ngài đã thực sự trở thành một với chân lý. Bây giờ Ngài thực sự là một vị Phật.
Với sự giác ngộ, đã diễn ra sự giải phóng khỏi vô minh, lo âu, buồn phiền, và mọi bất hạnh. Và, có thể được coi như một phần thưởng, chúng ta trải nghiệm một trạng thái xuất thần của sự hiện hữu thuần khiết.
Trạng thái này là một khả năng thực tế đối với bất kỳ ai đã được sinhra trong thân người. Được biết đến như sự “giải thoát tâm hồn”, Phật tử thuộc mọi hệ phái đều truy cầu cùng một mục đích này.
Phật giáo gọi cái trạng thái không thể mô tả đó, vượt ngoài hiện hữu và không hiện hữu, nơi mà mọi tham ái, vô minh, đau khổ đều bị tận diệt, là Niết-bàn. Trạng thái này có thể đạt được cả trong cuộc sống này lẫn sau khi chết.
Khái niệm này thật khó để người phương Tây nắm bắt, vì thoạt nghe, nó có vẻ giống như việc tiêu diệt tất cả những gì chúng ta coi là quý giá. Điều đó có vẻ như nói rằng chúng ta tự tiêu diệt để chúng ta thoát khỏi đau khổ; kẻ cam tâm tự tử trong hành động gần với sự ích kỷ nhất.
Nhiều triết gia phương Tây khác lập luận rằng điều mà chúng ta gọi là “tôi” không phải là cái “tôi” chân thật, và ở những thời điểm nào đó, chúng ta có thể có được một cái nhìn thoáng qua về một cái “tôi” vĩ đại hơn. Một số nhà huyền học gọi cái Vô hạn, Bản thể, hay Vũ trụ là Thượng đế hay Linh hồn Vũ trụ. Nhưng ý tưởng tương tự như quan điểm của đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể được thấy trong các triết thuyết của Descartes, Spinoza, Locke, Berkeley, Kant, và Kierkegaard.
Đặc biệt, sự thành tựu vĩ đại của Schopenhauer (1788 – 1860) nằm trong sự nhận thức của ông về phẩm giá nội tại của lương tâm nhân loại mà ông cho là đứng trên mọi thần linh, và là nguồn gốc của mọi sự, một chân lý được Schopenhauer phát hiện độc lập. Cũng vậy, nhà huyền học Thiên Chúa giáo Angelus Silesius (1624 – 1677) đã so sánh sự hợp nhất với cái vô tận như là một giọt nước trở thành một với đại dương, “Mỗi giọt nước trở thành biển cả khi nó chảy ra biển, hệt như cuối cùng các linh hồn thăng hoa và trở thành Thượng đế”.
Vị thánh Ấn Độ giáo hiện tại, ngài Sai Baba, nói, “Người mà lúc nào cũng khuất phục được tính vị kỷ, chiến thắng lòng ham muốn và lợi ích của riêng mình, tiêu diệt được mọi tinh khí và những xung động dã man cũng như từ bỏ được cái thiên hướng tự nhiên coi thân xác là tự ngã, người ấy rõ ràng đang đi trên con đường của giáo pháp.
Người ấy biết rằng mục tiêu của giáo pháp là sự hòa nhập của sóng vào biển cả, sự hòa nhập của tự ngã vào siêu ngã” (Trích Dharma Vahini, trang 4) và, “Chúng ta chỉ là cái bóng của Ý thức Tối thượng, và về cơ bản, chúng ta không là một cá nhân, mà chính là Ý thức Tối thượng ấy”.
Mặc dù Thượng đế hiện diện trong thiên giới và trong linh hồn con người, Ngài cũng siêu vượt thế giới ấy. Tuy nhiên trong các tôn giáo phương Đông, có sự nhấn mạnh rằng kinh nghiệm huyền bí là một sự hợp nhất toàn thể với Thượng đế. Đạo Phật không tin vào một vị Thượng đế sáng tạo độc lập, nhưng như chúng ta có thể thấy, chân lý mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni hé lộ cho chúng ta, về bản chất, cũng giống với những gì là cốt lõi của hầu hết những tôn giáo và triết lý khác.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng
Nghiên cứu 15:55 17/04/2024Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala
Nghiên cứu 10:10 05/04/2024Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.
Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người
Nghiên cứu 18:00 02/04/2024Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.
A lại da thức và Mạc na thức
Nghiên cứu 09:00 16/03/2024Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.
Xem thêm