Hai chữ Việt Nam trong thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu
Tôi vội liên lạc với ông Sơn để xác minh. Ông Trần Đình Sơn gửi cho tôi hai bức hình chụp chiếc tô này, kèm lời “thẩm định”: “Đây đúng là món đồ do chúa Nguyễn Phúc Chu ký kiểu. Bài thơ ‘Hà Trung yên vũ’ là bài thơ thứ năm và cũng là bài thơ mới nhất của chúa được phát hiện trên đồ sứ ký kiểu”.
Năm 1694, chúa cho người sang Quảng Đông mời hòa thượng Thạch Liêm sang Thuận Hóa thuyết pháp về đạo Phật và lập trai đàn ở chùa Thiên Mụ để cầu siêu và tịnh độ cho binh dân xứ Thuận Hóa. Ông quy y với Hòa thượng Thạch Liêm, phát tâm thọ giới Bồ tát tại gia vào năm 1695 và được Hòa thượng Thạch Liêm ban cho pháp danh Hưng Long, đặt hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Vì thế, khi sáng tác thi văn, ông thường ghi ba chữ Đạo nhân thư ở cuối các tác phẩm của mình.
Đó là những bài thơ ‘thất ngôn bát cú’, viết thành 10 dòng, gồm dòng tiêu đề, 8 dòng nội dung và dòng lạc khoản cuối cùng ghi ba chữ Đạo nhân thư. Cạnh mỗi bài thơ là một bức tranh ‘sơn thủy - nhân vật’, vẽ cảnh sắc, địa danh mà bài thơ miêu tả. Đây là lối trang trí ‘nhất thi, nhất họa’ rất phổ biến trên đồ gốm sứ phương Đông lúc bấy giờ.
Tô sứ đề bài thơ 'Ải lĩnh xuân vân' của chúa Nguyễn Phúc Chu. |
Ải Lĩnh là tên cũ của dãi núi nằm giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng ngày nay. Trên núi có xây dựng cửa ải nên gọi là Ải Lĩnh. Dân gian thường gọi là Ngải Lĩnh vì trên núi này có mọc nhiều cây ngải, tương truyền đến mùa hoa nở, gió thổi bay xuống biển, cá ăn được sẽ hóa thành rồng.
Năm 1826, vua Minh Mạng cho xây lại cửa ải, đặt tên là Hải Vân quan, từ đó, quen gọi là núi (hay đèo) Hải Vân. Sách Ðại Nam nhất thống chí, bản in thời Duy Tân (1907 - 1916) có khắc in bốn câu đầu của bài thơ này nhưng trong các câu phá thừa có khác mấy chữ so với bài thơ viết trên đồ sứ ký kiểu. Sách này cũng xác nhận tác giả bài thơ trên là Hiển Tông Hoàng Đế, tức là chúa Nguyễn Phúc Chu.
|
Bài thơ Ải lĩnh xuân vân trên tô sứ ký kiểu |
Dịch nghĩa:
Tô sứ đề bài thơ Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu |
Vì thế, trong tờ dụ các quân cơ đại thần của Thanh triều vào ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (26/05/1803), vua Gia Khánh dụ rằng: “Việc xin đặt tên nước là Nam Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ Việt Nam; lấy chữ Việt để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ Nam để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”. (Hồ Bạch Thảo, Những sử liệu liên quan đến việc đặt tên nước Việt Nam, www.talawas.de, ngày 26.8.2005).
Chiếu có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch.
Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ 1).
Cách đây hơn 15 năm, PTS. Đỗ Bang cũng đã công bố một bản tuyên cáo về việc đổi quốc hiệu của nước ta từ An Nam sang Việt Nam trong tác phẩm Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích, ghi việc “vâng mệnh vua soạn thảo bản tuyên cáo về quốc hiệu mới”. Vì Phan Huy Ích là văn thần thân tín của vua Quang Trung nên PTS. Đỗ Bang cho rằng việc đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam có từ triều Tây Sơn (Đỗ Bang, Quốc hiệu nước ta có từ bao giờ, Thế Giới Mới, số 92, tháng 5/1994). Những phát hiện trên cho thấy từ lâu, hai chữ Việt Nam đã được ông cha ta dùng để chỉ cương vực của đất nước.
Vì thế, họ dịch hai chữ Việt Nam này là “đi/vượt về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt”. Tuy nhiên, bản dịch sách Đại Nam nhất thống chí (Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, 1992) thì cho rằng hai chữ này chỉ tên nước Việt Nam, khi dịch câu: “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên” là “Núi này ải hiểm đất Việt Nam”.
Bài thơ Hà Trung yên vũ trên tô sứ ký kiểu |
Một vị chúa đã chủ trương xóa tên nước Chiêm Thành để đổi làm trấn Thuận Thành (về sau đổi làm phủ Bình Thuận); chủ trương chia đất cũ của Chân Lạp thành hai dinh: Phiên Trấn và Trấn Biên, nhằm xóa bỏ tất cả những ảnh hưởng còn sót lại của hai vương quốc lân bang đã bị các triều đại Đại Việt thôn tính, thì việc đặt cho vùng đất do các chúa khai phá và cai quản ở Đàng Trong một quốc hiệu mới là Việt Nam, không phải là một khả năng không được tính đến.
Mong lắm thay!
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Ám áp bên Thầy ngày Nhà giáo Việt Nam
Văn hóa 16:57 20/11/2018Sáng ngày 20/11/2018 (14/10/Mậu Tuất), phật tử đạo tràng BQT chùa Đức Hòa và Thiên Bửu đã vân tập về Tổ đình Thiên Bửu (thôn Bình Thành, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa) để chúc mừng Hòa thượng viện chủ nhân ngày Nhà giáo Việt Nam.
Phật
Văn hóa 12:28 14/11/2018Phật ngồi trên sườn núi,/Nhìn xuống đường bụi mù,/Phật đang nghĩ gì thế nhỉ!/Thương con người ngược xuôi?
Tọa đàm về tác giả bài thơ bất hủ “Em đi chùa Hương”
Văn hóa 12:18 14/11/2018
Sáng ngày 9/11/2018, Nhà xuất bản Phụ nữ và Khoa Viết văn – Báo chí, trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức tọa đàm “Đọc lại Nguyễn Nhược Pháp” về sự nghiệp văn chương, nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày mất của nhà thơ tài hoa bạc mệnh.
An lành
Văn hóa 10:12 13/11/2018Xin cầu thấu rõ chân diệu pháp/Hiện tượng vạn vật luôn biến đổi/Muôn sự hết thảy nương nhau thành/Để tâm tịch lặng an lành nhất/An lành như thế thật an lành!
Xem thêm