Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 05/08/2014, 08:57 AM

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Quang

Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Chứng minh Ban trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hoà; Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương; Viện chủ Chùa Đông Phước phường Phước Long Tp.Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà

Đại lão Hòa thương Thích Huệ Quang (1927-2009)

THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Hòa Thượng
THÍCH HUỆ QUANG,  húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu  Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10  tháng 01 năm  Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.

Thân phụ là cụ Dương Dõng, người góc ở Gia Định, phủ Long An, tổng Long Hưng hạ, xã Phước Lợi, là một nhà Nho uyên bác, sùng kính Tam Bảo. Sinh thời thân phụ của ngài thủ chức Kinh Thơ Lại Nê Tấn Thừa Sự, tỉnh Gia Định, Hàm Bát phẩm. Hoàn cảnh Nam phần lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của Pháp, nên cả gia đình di tản ra Khánh Hoà, ở vùng Lục Đồn, Nha Trang.


Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Na, người ở thôn Tân Tế, phủ Ninh Hoà, Khánh Hoà. Ngài là người con thứ ba trong gia đình có 4 người con. Năm 13 tuổi Ngài đậu Sơ học Yếu lược. Năm 1939, ngài tham học Cours Prémier tại trường Kim Yến Nha Trang. Sau khi thân phụ ngài qua đời, ngài luôn cận kề bên thân mẫu để chăm dưỡng mẹ già. Mỗi lần về quê thăm mẹ, ngài thường viếng chùa Thiên Bửu Thượng (phủ Ninh Hòa) và từ đó ngài xin học đạo với Thượng Toạ Trụ trì, huý Chơn Du, Tự Chánh Thức, hiệu Nhơn Thiện và được Hoà Thượng Nhơn Hoằng hướng dẫn học đạo. Sau khi Tổ Nhơn Thiện về Nha Trang, đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước. Năm 1942 (Nhâm Ngọ) năm Ngài 15 tuổi, xin xuất gia tại đây và được Bổn sư cho pháp danh Không Hành. Lúc này vừa học đạo, vừa học Hán văn với Giáo sư Nguyễn Đức Trọng (tức Nguyễn Hoành) được gần 4 năm thì Cách mạng khởi nghĩa, nhằm vào tháng 8 năm 1945 (Ất Dậu). 


Lúc bấy giờ, do chiến tranh hổn loạn, chùa Đông Phước bị giặc đốt, cả xóm gần chùa cũng bị đốt phá. Ngài đưa mẫu thân về Ninh Hòa để lánh nạn. Đến năm 1948 (Mậu Tý) mẹ Ngài qua đời.


Năm 23 tuổi, với lòng quyết chí học đạo, nên Ngài trở về lại chùa Đông phước thọ giáo với Bổn sư là Hoà Thượng Thích Minh Huệ và được phú pháp tự là Từ Tâm.


Đến năm Nhâm Thìn (1952) 25 tuổi, Ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Thiên Bửu, Ninh Hoà, do Tăng cang Hoà Thượng Thích Trí Thắng, Viện chủ chùa Thiên Hưng, Phan Rang làm Đàn đầu truyền giới.


Từ đó ngài sớm hôm học đạo với Bổn sư là HT Thích Minh Huệ. Đến năm 1959 HT Thích Minh Huệ viên tịch. Năm 1960, được Bổn tự, Bổn đạo cung thỉnh ngài làm Trụ trì chùa Đông Phước. Cũng năm đó (1960) được Hoà Thượng Thích Bích Lâm, Viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương phú pháp nhãn tạng, đặt hiệu là Huệ Quang, pháp tử đầu tiên môn phong Nghĩa Phương.


Từ năm 1962, ngoài trách nhiệm tại Bổn tự, ngài còn tham gia công tác Giáo hội:


-Năm 1962 tu bổ lại chùa Đông Phước lần thứ nhất, vì bị chiến tranh năm 1945 đốt phá hư sập.

-Năm 1966: Phó Tăng trưởng Tỉnh hội Phật gíáo Cổ truyền Khánh Hoà.

-Từ năm 1968 đến năm 1975: Ngài được suy cử làm Tăng trưởng Tĩnh hội Phật giáo Cổ truyền Khánh Hoà.

-Từ năm 1970 đến năm 1973:  kiêm chức Tổng Thư Ký Ban Đai diện Phật giáo Cổ truyền Trung Phần.

-Từ năm 1972 đến năm 1975 lập Trường Tiểu học Bát Nhã nằm ở sau chùa để dạy dỗ con em Phật tử nghèo.

-Sau khi GHPGVN được thành lập, ngài được đề cử vào Từ năm 1982: Uỷ viên Hoằng pháp, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh, nhiệm kỳ I (1982-1985) và NK II (1986-1989). Tiếp đó, ngài đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Hoằng pháp Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hoà, nhiệm kỳ 1991-1994 và lưu đến năm 1996.

Về phần tham dự các giới đàn:
Trong suốt thời gian hành đạo Cố Đại lão HT. Thích Huệ Quang đã đảm nhận nhiều trọng trách trong các giới đàn truyền giới trên cả nước như:

1.-Ngày 27.9 năm Nhâm Dần (1962): Đệ tứ Tôn chứng, tại Giới đàn chùa Long Quang,  Phú Nhuận, Sài Gòn.

2.-Năm Ất Tỵ (1965): Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Thiền Lâm, Quận 6, Lục Tỉnh, Sài Gòn.

3.-Ngày 26.02.năm Mậu Thân (1968) được suy tôn Giáo Thọ A Xà Lê sư, tại giớI đàn chùa Phật Ấn, đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.

4.-Ngày 15.3.Kỷ Dậu (1969), được suy tôn Yết Ma A Xà Lê sư, tại giới đàn chùa Nghĩa Phú, xã Hoà Thắng, huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên.

5.- Ngày 10.4.Canh Tuất (1970) được Tôn cử Tuyên Luật sư .

6.- Ngày 15.7.Canh Tuất (1980) được Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam suy tôn Hoà Thượng tại  giới đàn chùa Cổ tích Bửu Phong, Thị xã Biên Hoà.

7.- Thành viên Ban chức sự các Giới đàn như: Năm 1963: Ban Tổ chức Giới đàn chùa Sắc tứ Minh Tịnh, Quy Nhơn.

Năm 1993: Ban Chức sự Giới đàn tại chùa Long Sơn,  v.v…

Với Ngài Đạo pháp và dân tộc luôn đồng hành vì thế năm 1945, thời kỳ chống Pháp, Ngài tham gia trong hàng ngũ Việt Minh, 1949, bị Pháp bắt ở tù 8 tháng tại 5 e Baurau Nha Trang.


 
1975, sau ngày giải phóng đất nước thống nhất:
Tham gia  Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, phường Phước Hải từ năm 1979 đến năm 1993: 5 nhiệm kỳ: với các chức vụ: Uỷ viên, Phó Chủ tịch UBMTTQVN  Phường Phước Hải.
Hội đồng Nhân dân Phường Phước Hải khoá 4.
Từ năm 1989 đến năm 1996: 2 nhiệm kỳ Thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Nha Trang.
Hoà Thượng đã được nhiều giấy khen của Uỷ Ban MTTQVN thành phố Nha Trang.
- Năm 1996, được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp Đoàn kết dân tộc: của Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam.
-Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2004-2007) GHPGVN: Ngài được tấn phong Hoà Thượng.
- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI (2007-2012) GHPGVN: Ngài được suy tôn làm thành viên HĐCM TW GHPGVN.             
* Về công tác biên dịch:Ngài đã dịch nghĩa Nghi thức Thiền môn Chánh độ, các nghi lễ thông dụng trong ứng phó Đạo tràng; viết Tiểu sử Tổ Khai sơn chùa Đông Phước.  Biên soạn Tiểu sử chùa cổ tích Đông Phước.Ngoài ra Ngài đặt câu liễn, đối, viết Thư pháp cho nhiều Tự viện trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.

THỜI KỲ THỊ TỊCH

Sau hơn 50 năm hành đạo Ngài đã đào tạo được một đội ngũ Chư Tôn đức, có đạo hạnh, có năng lực, tham gia công tác phật sự của tỉnh hội cũng như đáp ứng yêu cầu các phật sự của chùa, khi phật tử cần đến.

Đặc biệt ở tuổi ngoài 80. Ngài vẫn quyết tâm chống gậy, để xây dựng hoàn thiện ngôi phạm vũ Đông phước qua nhiều lần trùng tu. Từ năm 2007, Ngài đã Đại trùng tu ngôi Tam Bảo Đông Phước như ngày nay. 


Thuận thế vô thường; thân tứ đại mõi mòn theo nhật nguyệt, sau một thời gian lâm trọng bệnh. Tuy được môn phong huynh đệ, môn đồ pháp quyến, cùng quý vị Y, Bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị. Song, vì tuổi cao sức yếu Ngài đã thâu thần an nhiên thị tịch, vào lúc nữa đêm giờ Tý, 01 giờ 20 ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009), tại ngôi chùa Đông Phươc - nơi mà 67 năm về trước Ngài đã xuất gia. Ngài trụ thế 83 năm, hạ lạp  57 năm. 


Hỡi ơi:


Dép cỏ lối về còn lưu dấu

Hoa đàm tuy rụng vẫn ngát hương

Một mai thân xác quy Tây

Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời

Pháp thân lồng lộng sáng ngời

Chiếu soi pháp giới rạng ngời chân như

Đệ tử Trí Bửu thành kính tưởng niệm cố Hòa thượng nhân húy nhât lần thứ 5 (10/07/Kỷ Sửu, 2009 - 10/07/Giáp Ngọ, 2014)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Câu chuyện có thật về sự chủ động tái sinh

Tư liệu 14:16 19/04/2024

Khoảng một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, giáo pháp ngày càng phát triển trong giới trí thức Ấn Độ. Một trong những luận sư xuất sắc thời đó là Chandra, người vừa có cái thư thả của bậc giác ngộ, lại có cái tài hùng biện và lý luận sắc sảo của một người trí thức.

Phương thức niệm Phật đời Trần

Tư liệu 08:23 18/04/2024

Không phải ngẫu nhiên đến đời Trần, phương thức niệm Phật được Thiền phái Trúc Lâm chú trọng trong việc vận dụng vào đời sống thực nghiệm tâm linh trong các Thiền đường nước Đại Việt.

Cha mẹ là ruộng phúc trong 3 cõi

Tư liệu 08:10 16/04/2024

Phật bảo Ngài A Nan rằng: - Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân cõi Thiên, Niết Bàn giải thoát, cũng do đó mà được thành tựu vậy!

Thiện duyên của người mẹ cúng dàng 500 vị Bích Chi Phật

Tư liệu 06:58 16/04/2024

Theo kinh Ðại phương tiện Phật báo ân, vào thời quá khứ xa xưa có một người nữ, do một bất thiện nghiệp ở tiền kiếp đã sinh ra làm con của một con nai cái. Nhưng cũng nhờ những nghiệp nhân tốt đẹp khác, cô gái do nai sinh ra có một tướng mạo đoan chính, tính tình bao dung, hiền thiện.

Xem thêm