Tinh thần gia phong của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
Ở thời Trần kể từ sơ tổ Trúc Lâm trở đi cũng là một trong những biểu hiện sống động và giá trị cho tinh thần gia phong của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Bởi những hoạt động này đến nay vẫn còn kế thừa và phát huy.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này dường như chỉ xuất hiện ở thời Trần, và được tìm thấy trong các tác phẩm thuộc dạng đối thoại Thiền, cụ thể là trong phần Niêm tụng kệ của Trần Thái Tông, phần Đối cơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ , phần Bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông .
Đoạn đối thoại này cho thấy, thuật ngữ Gia phong có từ thời Vãn Đường, tông Quy Ngưỡng đề cập đến trước và ý nghĩa cơ bản là phong giáo của từng Thiền sư, từng Tổ sư. Dẫu vậy, cùng với sự phát triển của Thiền tông, đặc biệt là sự xuất hiện của 5 phái Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Tào Động, Pháp Nhãn thì thuật ngữ Gia phong còn hàm tàng một nét nghĩa nữa là phong giáo của chi phái, hệ phái, thậm chí là tông phái. Vì vậy, cũng trong Cảnh Đức truyền đăng lục, bên cạnh thuật ngữ Gia phong, ta lại thấy có các thuật ngữ Gia khúc, Tông phong.
Có lẽ, chính vì sự tu tập và đạt ngộ của mỗi Thiền sư nói riêng, của Thiền tông nói chung vô cùng phóng khoáng, không gò bó trong một khuông pháp cố định, một giáo điển đặc thù như các tông phái Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Duy Thức… của Phật giáo đương thời nên sự khác biệt được thể hiện vô cùng rõ rệt. Từ đó trong quá trình truyền bá, tiếp dẫn học trò, các Thiền sư dĩnh ngộ đã vô tình tạo nên một phong cách riêng biệt.
Với uy tín đặc biệt đó của mỗi Thiền sư cũng như sự thịnh hành, đông đúc của đồ chúng đã dẫn đến sự ra đời và hoằng truyền của các chi phái Thiền, đặc biệt là 5 chi phái trên. Điều này tuy đã tạo nên một sự phát triển mạnh mẽ của Thiền tông phương Nam, nhưng cũng đã nhen nhóm sự phân biệt giữa các chi phái ấy trong Thiền tông.
Một điều đáng quan tâm nữa là sự loạn lạc, chia rẽ của xã hội từ thời Vãn Đường trở đi, sự hình thành mười quốc gia nhỏ ở thời Ngũ đại thập quốc, dẫn đến sự ủng hộ riêng biệt của mỗi vị quốc chủ đối với một Thiền sư, một Tông phái nằm trên vùng lãnh thổ quản trị riêng… cũng là một trong những yếu tố góp phần hình thành nên phong trào phân biệt Gia phong, Gia khúc, Tông phong của Thiền tông đương thời.
Tháp Phật hoàng Trần Nhân Tông trên đỉnh Ngọa Vân |
Có thể nói, tôn chỉ, tên gọi đặc biệt và tư liệu chuyên biệt đã thể hiện trọn vẹn tính quan trọng của sự hình thành Ngũ gia trong Thiền tông Trung Hoa.
Thế rôi cuộc hội ngộ giữa vua Trần Thái Tông với Thiền sư Phù Vân – đệ tử nối pháp của Thiền sư Hiện Quang núi Yên Tử, cuộc hội ngộ giữa vua Trần Thái Tông với Thiền sư Thiên Phong mà theo Lược dẫn Thiền phái đồ được ghi trong Thượng sĩ ngũ lục là thuộc phái Lâm Tế Trung Quốc, việc các vua Trần nhường ngôi cho Thái tử khi đứa cháu trai đầu tiên ra đời và giành nhiều thời gian hơn cho việc học Phật, ngộ Thiền, đặc biệt nhất là việc xuất gia học Phật, ngộ Phật của vua Trần Nhân Tông trên núi Yên Tử… tất cả đều là những điều kiện quan trọng cho sự ra đời của một phái thiền thống nhất Phật giáo – Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Về phương diện xã hội, sự thay ngôi đổi vị từ nhà Lý sang nhà Trần, việc coi quốc gia xã tắc là của gia tộc họ Trần với những pháp chế riêng biệt như gọi vua là Quan gia, người họ Trần cưới nhau… cũng là những yếu tố quan trọng góp phần cho sự ra đời tinh thần Gia Phong trong Phật giáo Trúc Lâm thời Trần.
Nêu: Thế Tôn vừa lọt lòng mẹ, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói: Trên trời dưới đất ta là hơn cả. Niêm: Một làn mây trắng vắt ngang động, đã mấy đàn chim lạc tổ về. Tụng: Đạt Đa xưa giáng Tịnh vương cung, muốn độ quần sinh lộ thánh tung, bảy bước dạo quanh trời đất chỉ, đã bao phật tử mất Gia phong; Nêu: Văn Thù Bồ tát, thấy người con gái ngồi bên cạnh Phật nhập định. Văn Thù đuổi ra không được, Phật sai Võng Minh đuổi được. Niêm: Con nhà oan trái, làm hỏng Gia phong; Nêu: Sư hỏi Lâm Tế: Thế nào là vô vị chân nhân. Lâm Tế nói: Cục phân khô. Niêm: Bắn sẻ mất châu, ném chuột bẩn đồ. Tụng: Vô vị chân nhân một cục phân, Gia phong phật tử khiến đem chôn… . Phần Đối cơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ thì:
Hỏi: Thế nào là Gia phong của Thượng sĩ?
Đáp: Nhàn ném trái rừng kêu vượn tiếp, lười câu cá suối khiến hạt tranh. Phần Bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông:
Hỏi: Thế nào là Gia phong của Phật quá khứ?
Đáp: Vườn rừng vắng vẻ không người quản, mận trắng đào hồng tự nở hoa.
Hỏi: Thế nào là Gia phong của Phật hiện tại?
Đáp: Bạch thủy gia phong mê yến sớm, đào thắm vườn tiên say gió xuân.
Hỏi: Thế nào là Gia phong của Phật vị lai?
Đáp: Bãi biển chờ triều, trời đợi nguyệt, thôn chài nghe sáo khách mong nhà.
Hỏi: Thế nào là Gia phong của Hòa thượng?
Đáp: Áo rách ôm mây mai húp cháo, bình xưa rót nguyệt tối chưng trà. Có thể nói, Gia phong trong những đối đáp Thiền này không chỉ thuộc bản thể, cụ thể là Phật tính, là bản lai diện mục của mỗi chúng sinh mà vua Trần Thái Tông chỉ dạy, mà còn thuộc phương diện diệu dụng, cụ thể là nếp nhà, phong giáo của chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai như vua Trần Nhân Tông đáp lời, hoặc là nếp nhà, phong giáo của các Tổ sư mà Tuệ Trung Thượng sĩ và Hòa thượng Trần Nhân Tông là đại diện.
Đây là một sáng tạo đặc biệt của Phật giáo Thiền Trúc Lâm Yên Tử thời Trần - một Thiền phái dường như được thiết lập và hoằng truyền bởi những vị thuộc hoàng thân quốc thích nhà Trần.
Sau khi đại nhạc tấu lên, danh hương đốt lên, Điều Ngự dẫn sư đến tổ đường lạy chư tổ. Buổi cháo sáng kết thúc, đại nhạc lại tấu, pháp cổ được đánh, đại chúng vân tập ở pháp đường. Xa giá vua Anh Tông đến chùa, ngôi chủ khách đã được đặt. Với tư cách là đại đàn việt của Phật pháp, vua Anh Tông được ngồi vào vị trí khách chính, quan lại đứng hai bên. Điều Ngự lên tòa thuyết pháp.
Giảng xong, người bước xuống, dẫn sư lên pháp tòa. Điều Ngự chắp tay chào hỏi, sư đáp lễ, nhận y pháp đắp lên người, Điều Ngự ngồi vào ghế khúc lục nghe sư giảng pháp. Điều Ngự mệnh sư kế nhiệm trụ trì sơn môn Yên Tử, chùa Siêu Loại, nối dòng Trúc Lâm đời thứ hai. Lại trao cho sư trăm hòm kinh sử ngoại thư và hai mươi hòm Đại tạng tiểu thừa được viết bằng máu, để sư làm rộng cái học trong ngoài” . Việc trao truyền pháp vị này khá đặc biệt.
Vì bên cạnh việc trao ca sa và pháp kệ là kế thừa truyền thống Thiền tông, việc trao truyền cả kinh sử ngoại thư, đại tạng kinh tiểu thừa lại vừa thể hiện sự dung hợp giáo điển Đại thừa, Tiểu thừa, không phân biệt, không kỳ thị đối với cái học nội điển mà Thiền tông Trung Hoa hay các tông phái Phật giáo khác của Trung Hoa thường mắc phải, vừa bày tỏ sự dung nhiếp cả cái học thế tục vốn có trong truyền thống Phật giáo Ấn Độ và truyền thống Phật giáo Việt của Phật giáo Trúc Lâm.
Ngoài ra, việc vua Anh Tông cùng quần thần tham dự buổi truyền pháp vị này cũng xác lập tính chính danh và duy nhất của Thiền phái Trúc Lâm từ phương diện xã hội.
Cả hai dường như đều nhằm để xây dựng một gia phong riêng biệt cho Phật giáo Trúc Lâm mà trước đó Phật giáo Thiền thời Lý chưa có, rộng ra là Phật giáo Thiền các nước.
Ngoài ra, vào năm Hưng Long thứ 18, tức hai năm sau đó, vua Anh Tông cũng lệnh cho sư thiết lập việc ba năm độ Thường tùy tăng một lần. Việc này vừa giúp xác lập đồ chúng đặc biệt cho thiền phái Trúc Lâm, đồng thời cũng xác lập tính chính danh của tu sĩ thuộc phương diện xã hội.
Đây cũng là một trong những biểu hiện cụ thể của tinh thần gia phong trong Phật giáo Trúc Lâm thời Trần dưới sự kết hợp của nhà nước và giáo hội.
Ảnh minh họa |
Nghĩa là coi trọng lịch sử Phật giáo dân tộc. Thiền sư Kim Sơn (1300 – 1370) đã sáng tác 3 tác phẩm: Thiền uyển tập anh, Thánh đăng lục, Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục. Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647 – 1726), Tính Quảng Điều Điều (1694- 1768), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), An Thiền (1790 – 1860) đã cho ra đời những tác phẩm như Thiền tông bản hạnh, Tam tổ thực lục, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục… nhằm khẳng định lịch sử truyền thừa người Việt bên cạnh những tác phẩm mang tính thực hành như Kiến tính thành phật lục (Chân Nguyên), Phật tâm luận (Như Trừng Lân Giác 1690 – 1729), Tham thiền văn (Toàn Nhật 1757 – 1834)…
Ths.Mai Thị Thơm/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5 năm 2014
Chú thích:
Thuộc tác phẩm Khóa hư lục
Thuộc tác phẩm Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục
Thuộc tác phẩm Tam tổ thực lục
Bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Hồng Đức, tập 2, tr 38
Bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Hồng Đức, tập 2, tr 205 - 206
Bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Hồng Đức, tập 2, tr 220
Bản dịch của Nguyễn Nam Trân, quangduc.com
Tác phẩm trên, mục Khái niệm ngũ gia và vai trò của nó
Tác phẩm trên, mục Ngũ gia và gia phong
Trích dẫn từ Toàn tập Trần Thái Tông của Lê Mạnh Thát, NXB HCM, 2004
Trích dẫn từ Toàn tập Trần Thái Tông của Lê Mạnh Thát, NXB HCM, 2004
Trích dẫn từ Toàn tập Trần Thái Tông của Lê Mạnh Thát, NXB HCM, 2004
Trích dẫn từ Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải của HT Thích Thanh Từ, Thiền viện Thường Chiếu, 1997
Trích dẫn từ Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát, NXB HCM, 2000
Trích trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, thời Trần, tập 2, bia thứ 26
Cái học ngũ minh
Nho – Phật – Đạo… tịnh hành
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng
Nghiên cứu 15:55 17/04/2024Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala
Nghiên cứu 10:10 05/04/2024Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.
Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người
Nghiên cứu 18:00 02/04/2024Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.
A lại da thức và Mạc na thức
Nghiên cứu 09:00 16/03/2024Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.
Xem thêm