Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Từ điển phật học online
Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z

Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ a dục vương theo Tự điển Phật học như sau:

có nghĩa là:

(阿育王) Phạm: Azoka, Pāli: Asoka. Cũng gọi A-du-ca, A-du-già, A-thứ-già, A-thú-khả, A-thúc. Dịch ý: Vô Ưu Vương (vua không lo). Còn có tên Thiên Ái Hỉ Kiến Vương (Phạm: Devànaôpriya priyadrasì, trời thương yêu thấy thì mừng). Là vua đời thứ ba của triều đại Khổng Tước nước Ma-yết-đà Trung Ấn Độ. Vua ra đời khoảng thế kỉ thứ III trước Tây lịch, thống nhất Ấn Độ, là nhà bảo hộ Phật giáo mạnh mẽ nhất. Ông nội vua là đại vương Chiên-đà-la-cấp-đa (Phạm: Candragupta), người sáng lập triều đại Khổng Tước; thân phụ là vua Tân-đầu-sa-la (Phạm:Bindusàra), thân mẫu là A-dục-vi-đạt-na (Phạm:Azokàvadàna) con gái của một nhà Bà-la- môn ở thành Thiệm-ba. Lúc còn nhỏ, A-dục rất cuồng bạo, không được vua cha yêu mến. Gặp khi nước Đức-xoa-thi-la (Phạm:Takwazìla) làm phản, vua cha sai ông đi dẹp loạn, cốt ý cho chết ngoài chiến trận. Nhưng không ngờ A-dục lại đánh tan quân phản loạn và quyền uy lừng lẫy. Sau khi vua cha mất, ông giết hết anh em rồi lên làm vua. Có chỗ nói, A-dục giết chết chín mươi chín người anh em; sau khi lên ngôi vẫn rất bạo ác, tàn sát đại thần, phụ nữ, làm thêm nhà ngục, giết hại trăm họ vô tội, bởi thế gọi là Chiên-đà A-dục vương (Phạm: Caịđàzoka - vua A-dục bạo ác). Ấn Độ Phật giáo sử của Đa-la-na-tha gọi ông là Ái dục A-dục (Phạm: Kàmàzokavua A dục tham muốn). Nhưng trong các chương 4, 5, 6 của Pháp sắc khắc trên vách núi lớn, chương 7 trong Pháp sắc khắc trên cột đá và Pháp sắc của Hoàng hậu v.v... đều chép rằng, trong thời gian vua A- dục cai trị, vẫn còn có anh em chị em. Bởi thế, truyền thuyết cho vua A- dục đã giết hết anh em có thể đã do đời sau nói phóng đại. Vua lấy thành Hoa Thị làm thủ đô, phạm vi cai trị bao quát toàn bộ Bắc Ấn Độ, một nửa Đại hạ, phía nam đến Án-đạt-la, phía đông đến bờ biển, ngang dọc vài nghìn dặm. Vua lại thi hành chính sách hợp lòng dân, yêu chuộng chân lí, giàu tinh thần bác ái, thực là từ khi Ấn Độ có lịch sử, vua A-dục là nhà thống trị có thành tích lớn lao mà trước ông chưa ai có được. Về năm tháng và nhân duyên vua qui y Phật, có nhiều thuyết khác nhau. Truyện A-dục vương quyển 1 nói, nhân thấy đạo hạnh của Tỉ-khưu Hải (Phạm: Samudra) mà vua qui y Phật. Chương 6 trong Đảo Sử và Thiện Kiến luật Tì-bà-sa quyển 1 thì nói, do sự cảm hóa của ngài Ni-cù-đà (Pāli: Nigrodha) mà vua qui y Phật. Chương 6 trong Ấn Độ Phật Giáo Sử của Da-la-na-tha bảo, do sự tích kì lạ của vị đệ tử của A-la-hán Da-xá (Phạm:Yaza) mà vua qui y Phật. Theo Pháp sắc khắc trên vách núi nhỏ ghi, sau khi qui y Phật, hơn hai năm rưỡi, tuy đã là Ưu-bà-tắc, nhưng vua chưa dốc lòng tin Phật, sau hơn một năm, vua mới gần gũi chư tăng và nhiệt tâm tu đạo. Khảo sát chung những đoạn ghi chép trên đây với câu Quán đính lên ngôi hơn mười năm thì đến với tâm Bồ-đề trong chương 8 của Pháp sắc khắc trên vách núi lớn, thì biết vua đã trở thành Ưu-bà-tắc vào khoảng năm thứ bảy kể từ sau khi lên ngôi. Nhưng chương 6 trong Đảo sử thì chép, sau khi lên ngôi được ba năm thì vua qui y Phật. Lại theo chương 13 trong Pháp sắc khắc trên vách núi lớn chép, sau khi lên ngôi được tám năm, thì vua chinh phục Yết-lăng-già (Phạm: Kalinga), thấy cảnh giết chóc thảm thương, vua rất xúc động, do vậy mà niềm tin Phật giáo lại càng kiên cố. Từ đó, vua quyết không dùng sức mạnh quân sự để mưu tìm con đường thống nhất nữa, và, với niềm tin sự thắng lợi nhờ chính pháp mà đạt được là sự thắng lợi trên hết (chương 13 trong Pháp sắc khắc trên vách núi lớn), vua dốc sức vào việc truyền bá Phật pháp. Do đó, phần nửa đời sau của vua được gọi là Đạt-ma A-dục vương (Phạm: Dharmàzoka- vua A-dục chính pháp). Theo truyền thuyết, vua cho xây dựng tám vạn bốn nghìn ngôi chùa và tám vạn bốn nghìn tháp Phật khắp trong nước. Việc này đều được ghi chép trong chương 6 của Đảo sử, trong Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa quyển 1, trong kinh Tạp A-hàm quyển 23, trong truyện A-dục Vương quyển 1, v.v... Nhưng trong các Pháp sắc của vua thì không thấy ghi việc này. Lại Thiện Kiến Luật Tì-bà- sa quyển 2 cho biết, vua lên ngôi được mười bảy năm thì mở đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba ở thành Hoa Thị, thỉnh ngài Mục-kiền-liên Tử-đế-tu (Pāli: Moggaliputta-tissa) làm Thượng tọa, có một nghìn vị Trưởng lão tham dự, qua chín tháng mới hoàn thành. Kế đó, vua phái các vị có tên sau đây đi các nơi để truyền đạo: - Mạt-xiển-đề (Pāli: Majjhantika) đến nước Kế Tân (Pāli: Kasmìra) và nước Kiện-đà-la (Pāli: Gandhàra). -Ma-ha-đề-bà (Pāli: Mahàdeva) đến nước Ma-hê-sa Mạn-đà-la (Pāli: Mahisakamaịđala). - Lặc-khí-đa (Pāli: Rakkhita) đến nước Bà-na-bà-tư (Pāli:Vanavàsi). - Đàm Vô Đức (Pāli: Yonaka-dham marakkhita) đến nước A-ba-lan-đa-ca (Pāli:Aparantaka). – Ma-ha Đàm Vô Đức (Pāli: Mahàdham marakkhita) đến nước Ma-ha-lặc-đà (Pāli: Mahàraỉỉha). - Ma ha-lặc-khí-đa (Pāli: Mahàrakkhita) đến nước Du-na thế-giới (Pāli: Yonaka-loka). - Mạt-thị-ma (Pāli: Majjhima) đến nước Tuyết sơn biên (Pāli: Himavantapadesa). – Tu-na-ca (Pāli: Sonaka) và Uất-đa-la (Pāli: Uttara) đến nước Kim Địa (Pāli: Suvaịịabhùmi). – Ma-hi-đà (Pāli: Mahinda), Uất-đế-dạ (Pāli: Uttiya), Tham-bà-lâu (Pāli: Sambala) và Bạt- đà (Pāli: Bhaddasàla) đến nước Sư Tử (Pāli: Tambapaịịidìpa). Lại chương 7 trong Đảo sử có chép, Ca-tha-bạt-thâu (Pāli: Kathàvatthu) trong tạng luận Pāli đã được kết tập vào thời bấy giờ. Nhưng trong các Pháp sắc của vua không thấy ghi chép việc này. Tuy nhiên, các chương 3, 5 và 13 trong Pháp sắc khắc trên vách núi lớn có ghi: mỗi năm năm, vua mở hội nghị các quan lại thuộc ngành Tư pháp và Thuế vụ để răn dạy về pháp, thụ lập pháp và đặt thêm các Đại pháp quan (Pāli: dhamma-mahàmàta). Khu vực truyền bá chính pháp xa đến Tự-lợi-á (Syria), Ai Cập, Mã Kì Đốn (Macedonia), Tắc-lợi-ni (Cyrene) v.v... Còn về truyền thuyết kết tập lần thứ ba, thì truyện A-dục vương do phương Bắc truyền hoàn toàn không đề cập gì đến. Luận Đại Trí Độ quyển 2 tuy có nói (Đại 25,70 Thượng): Vua A-du-ca mở đại hội Ban-xà-vu-sắt, các vị đại luận sư nghị luận khác nhau, vì thế có tên là Biệt bộ. Tuy vậy, đây cũng không thể cho là ý kết tập. Do đó, có thể nói, truyền thuyết về cuộc kết tập kinh điển lần thứ ba này, sự thật thế nào chưa được rõ. Về những kinh điển được lưu truyền đương thời vua A-dục, thì trong Pháp sắc khắc trên vách núi nhỏ ở Gia- nhĩ-các-đạt Bái-la-đặc (Calcutta-Bairàt) có ghi bảy thứ: 1. Tì-nại-da tối thắng pháp thuyết (Phạm: Vinaya-samukase). 2. Thánh Chủng kinh (Phạm:Aliya-vasàịì). 3. Đương Lai Bố Uý kinh (Phạm: Anàgata-bhyàni). 4. Mâu-ni kệ (Phạm: Muni-gàthà). 5. Tịch Mặc Hành kinh (Phạm: Moneya-sùte). 6. Ưu-ba-đế Sa-môn kinh (Phạm: Upatisa-pasine). 7. Thuyết La Hầu La kinh (Phạm: Làghulovada). Mấy thứ kinh trên đây, tương đương với: - Đại phẩm trong tạng Luật, - Tăng Chi bộ kinh, - Kinh Tập, một bộ phận trong Trung Bộ kinh thuộc Đại tạng Pāli. Lại Thiện Kiến luật Tì-bà-sa quyển 2 thì nêu ra các kinh mà những vị sư truyền đạo do vua A-dục phái đi đã giảng nói tại các nơi gồm có tám thứ sau đây: 1. Kinh Độc Thí Dụ (Pāli: Asivisopama-suttanta) 2. Kinh Thiên Sứ (Pāli: Devadùtasutta) 3. Kinh Vô Thủy (Pāli: Anamataggapariyàya-kathà) 4. Kinh Hỏa Tụ Thí (Pāli: Aggikkhandho-pama-suttantakathà) 5. Kinh Ma Ha Na La Đà Ca Diếp Bản Sinh (Pāli: Mahànàradakassapa-jàtaka) 6. Kinh Ca-la-la-ma (Pāli: Kàlakàràmasuttanta) 7. Kinh Sơ Chuyển Pháp Luân (Pāli: Dhammacakkapavattana-suttanta) 8. Kinh Phạm Võng (Pāli: Brahmajàlasuttanta) Chương 8 trong Đảo sử cũng nêu các kinh mà các nhà truyền đạo đã thuyết giảng, gồm có năm bộ: 1. Anamataggiya 2. Aggikkhandhopama-suttakathà 3.Nàradakassapa-jàtakakathà 4. Kàlakaràma-suttantakathà 5. Dhammacakkappavattana. Tất cả các kinh nêu trên, có thể nói, đều là những kinh điển được lưu truyền ờ đương thời vua A-dục. Còn theo các chương 1 đến 4 và 11 trong Pháp sắc khắc trên vách núi lớn, các chương 5, 7 trong Pháp sắc khắc trên cột đá ghi chép, thì sau khi lên ngôi, vua đã ban hành hai mươi sáu lần đặc xá. Ngoài ra, vua còn cấm sát sinh, làm việc bố thí, trồng cây hai bên đường, đào giếng v.v... Lại trên cột đá hiện còn ở trong vườn Lâm-tì-ni - nơi đức Phật đản sinh - có khắc câu: Sau khi quán đính lên ngôi được hai mươi năm thì đến nơi này. Pháp sắc khắc trên cột đá ở Ni-cát-lợi-ngõa (Pāli: Nigliva), có chép việc vua tham bái tháp Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Pāli: Konàgamana) và sửa chữa tháp này. Cuối đời, vua A-dục có vẻ rất buồn thảm. Theo truyện A Dục Vương quyển 3 chép, thì Vương hậu Đế-sa-la- xoa (Phạm:Tassàrakkhà) muốn tư thông với Vương tử Câu-na-la (Phạm: Kunàla), nhưng bị cự tuyệt, do đó, bà ta sai người móc mắt Vương tử. Vua nổi giận đốt sống Đế-sa-la-xoa, rồi đem tất cả của báu cúng dường hết, đến nỗi không còn một vật gì để cúng. Cuối cùng, vua lấy một nửa quả Am-ma-la (Phạm: àmalaka) cúng dường chùa Kê Tước (Phạm: Kurkuỉa). Về niên đại vua ra đời, xưa nay có nhiều thuyết khác nhau. Chương 13 trong Pháp sắc khắc trên vách núi lớn nói: Các vua của năm Vương quốc thuộc Hi Lạp ở ngôi cùng số năm là 261 trước Tây lịch, hoặc khoảng 14 hay 15 năm, từ năm 272 đến năm 258 trước Tây lịch. Như vậy, ta có thể suy đoán là vua lên ngôi vào khoảng năm 270 trước Tây lịch. Về số năm từ khi đức Phật nhập diệt đến khi vua A-dục ra đời, thì kinh Tạp A-hàm Bắc truyền quyển 23, kinh Hiền Ngu quyển 3 phẩm A-du-ca Thí Thổ, kinh Tăng Già La Sát Sở Tập quyển Hạ, kinh Tạp Thí Dụ quyển Thượng, Đại Trang Nghiêm kinh luận quyển 10 và luận Đại Trí Độ quyển 2 v.v... ghi là vua ra đời sau đức Phật nhập diệt một trăm năm; luận Dị Bộ Tông Luân thì chép sau Phật nhập diệt hơn một trăm năm; luận Thập Bát bộ và luận Bộ Chấp Dị, thì bảo một trăm mười sáu năm. Lại chương 6 trong Đảo sử và Thiện Kiến luật Tì-bà-sa quyển 2 chép, sau đức Phật nhập diệt hai trăm mười tám năm thì vua lên ngôi, còn đức Phật nhập diệt khoảng một trăm năm thì có vua Ca-la A-dục (Phạm: Kàlàzoka) đang ở ngôi. Vu Điền Huyền Kí (Li#i-yulluị-bstan-pa) văn Tây Tạng chép, sau đức Phật nhập diệt hai trăm ba mươi tư năm có vua Đạt-ma A-dục. Còn chương 5 trong Đảo sử thì cho biết, thời gian vua A-dục cai trị là ba mươi bảy năm. [X. Đại Trang Nghiêm kinh luận Q.3, Q.4, Q.10; Soạn tập Bách Duyên kinh Q.10; A Dục Vương truyện; A Dục Vương kinh; A Dục Vương Tức Hoại Mục Nhân Duyên kinh; Phó pháp Tạng Nhân Duyên truyện Q.3; Đại Đường Tây Vực Kí Q.8, A Dục Vương Sự Tích; Ấn Độ Tông Giáo Sử khảo; Ấn Độ Triết Học Nghiên Cứu Q.2, Q.4].

Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.

Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.

Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:

Ấn khế 印契 á á a a á a á (hoạ) á a a a!
Tự điển Phật học online được cung cấp bởi Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.