Đến chùa Thánh Duyên một ngày mưa
Trong một lần Chúa Hiền - Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đi du ngoạn ngang qua cửa biển Tư Dung (hiện nay là Tư Hiền), thấy có ngọn núi phong cảnh thơ mộng, hữu tình, bèn cho lập ngôi am thờ nhỏ đặt tên Mỹ Am để cầu phúc, an dân. Ngọn núi cũng từ đó có tên Mỹ Am Sơn.
Trải qua chiến tranh, loạn lạc cuối thế kỷ XVIII, ngôi chùa bị tàn phá hoàn toàn.
Đến năm 1835, vua Minh Mạng tuần du về Mỹ Am Sơn, cho đổi tên núi thành Thúy Hoa Sơn. Mùa thu năm sau (1836), với tâm nguyện trùng kiến ngôi chùa cổ có từ thời Chúa, vua cho dựng lại một ngôi chùa mới 3 gian 2 chái trên nền cổ tự cũ.
Năm 1837, nhân lễ đại khánh mừng Thuận Thiên Hoàng Thái hậu 70 tuổi, vua Minh Mạng tiếp tục cho sửa sang chùa, xây thêm Đại Từ Các, Điều Ngự Tháp, khắc bia đá nói về chùa Thánh Duyên dựng trên núi Thúy Hoa. Từ đó chùa mang tên Thánh Duyên và được ban sắc phong “Quốc tự”, tên chùa và tên núi cũng tách ra từ đó.
Sau khi lên ngôi, vì kiêng tên húy của mẹ mình là bà Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa, vua Thiệu Trị đã lệnh đổi tên núi Thúy Hoa thành Thúy Vân. Cũng bởi cảnh sắc mây vờn đỉnh Thúy Vân cùng sóng biếc của vùng đầm Cầu Hai - cửa Tư Hiền vua Thiệu Trị đã liệt núi Thuý Vân vào hàng thứ 9 trong 20 thắng cảnh xứ Thần Kinh (Thần Kinh nhị thập cảnh).
Ngôi chùa hiện nay vẫn mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn với lối xây “trùng thiềm điệp ốc”. Toạ lạc nơi miền Trung chịu khí hậu mưa nhiều, độ ẩm cao, và phong tục văn hóa đặc thù ảnh hưởng từ cung đình Huế, do vậy kiến trúc chùa hài hòa với thiên nhiên, chú trọng vào chiều rộng ít chú trong chiều cao, mái không vuốt cong cao như chùa miền Bắc.
Chùa Thánh Duyên là một trong 4 ngôi Quốc tự tại đất Cố Đô cùng với Thiên Mụ, Diệu Đế, Giác Hoàng.
Từ cổng Bắc phía sau chùa đi lên các bậc cấp với hàng cổ thụ hai bên sẽ đến gác Đại Từ (Đại Từ Các). Gác có cổng và tường bao xung quanh, bước vào cổng thì có sân rộng, bên trong ngôi gác 3 gian thì thờ Phật Di Đà ở gian giữa và hai vị Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí ở hai bên.
Đi tiếp về phía đỉnh núi là đến tháp Điều Ngự với lối xây dựng độc đáo vuông 4 cạnh, 3 tầng, cao khoảng 13m. Trong tháp, tầng trên thờ “Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật”; tầng giữa thờ “Nhân Gian Điều Ngự Phước Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn”; tầng dưới thờ “Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diêm La Chủ Tể”.
Phía sau “Điều Ngự Tháp” là con đường lát gạch đỏ đi ra đình Tiến Sảng. Nơi đây là điểm dừng chân, nghỉ ngơi, hóng mát, ngắm cảnh,… Từ đây còn có thể chiêm ngưỡng cảnh đầm phá Cầu Hai mênh mông và nhìn sang dãy núi Bạch Mã hùng vỹ. Tại ngôi đình này đã từng được các vua triều Nguyễn và nhiều tao nhân mặc khách đến đây du ngoạn, trong đó có những người đã làm nên những bài thơ hay lưu lại cho hậu thế. Nổi bật hơn cả có thể kể đến 2 câu thơ “tuyệt bút” của Tùng Thiện Vương:
“Tiến Sảng đình ba, Thiên Mụ nguyệt
Thủy hương lâm ảnh hữu nhân vô”
(Sóng đình Tiến Sảng, trăng Thiên Mụ,
Bóng rừng hương nước mấy ai hay)
Nhất Đại Thi Ông đã mách cho người sau nếu muốn tìm nơi có vầng trăng đẹp nhất, hãy về chùa Thiên Mụ trong đêm rằm; nếu muốn nghe nơi có tiếng sóng hay nhất, hãy đến đình Tiến Sảng trên núi Thúy Vân. Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên nằm cách trung tâm TP.Huế khoảng 60km về phía Nam (hơn 1 giờ đi ôtô) là một địa điểm đáng thăm quan cho những ai thích phong cảnh thiên nhiên mây núi hoà cùng nét cổ kính của ngôi chùa mang dáng dấp đặc trưng của Phật giáo xứ Huế.
Thăm Quốc tự Thánh Duyên qua ảnh:
Phùng Anh Quốc thực hiện
* Một số nội dung mang tính tư liệu được tham khảo từ sách và lời kể của thầy Giám tự tại đây.
** Và tham khảo từ sách:
- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb Tổng Hợp Hồ Chí Minh.
- Hà Xuân Liêm (2000), Những ngôi chùa Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Tin Khác