Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ thiên tử theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(天子) I. Thiên Tử. Con trời. Tức ông vua trong cõi người được các trời hộ trì. Đây là quả báo do đời trước làm 10 điều thiện hạ phẩm mà được. Kinh Kim quang minh quyển 3 (16, 347 thượng) nói: Tuy sinh trong cõi người, làm vua thế gian, nhưng được trời hộ trì, nên gọi là Thiên tử. II. Thiên Tử. Chỉ cho Ma vương ở tầng trời thứ 6 của cõi Dục, tức là Tha hóa tự tại Thiên tử ma. III. Thiên Tử. Chỉ cho người trời ở các cõi trời. THIÊN TỬ MA Phạm: Deva-putra-màra. Gọi đủ: Tha hóa tự tại thiên tử ma. Cũng gọi: Thiên ma. Chỉ cho Ma vương và quyến thuộc trụ ở tầng trời thứ 6 cõi Dục, 1 trong 4 loại ma.Thiên tử ma này hay làm chướng ngại pháp lành của người, ghen ghét pháp của hiền thánh, đồng thời thường gây sự nhiễu loạn, cản trở thiện căn xuất thế không cho thành tựu. Loài ma này là do nghiệp đời trước mà cảm được quả báo này, cho nên cũng gọi là Thiên tử nghiệp ma, là ngoại ma duy nhất trong 4 ma. [X. Luận Đại trí độ Q.5, 56, 68]. (xt. Tha Hóa Tự Tại Thiên, Tứ Ma). THIÊN TỨC TAI (?-1000) Cao tăng nước Ca thấp di la thuộc Bắc Ấn độ, đến Trung quốc dịch kinh vào đời nhàTống. Sư vốn trụ ở chùa Mật lâm tại nước Nhạ lan đà, Trung Ấn độ. Vào năm Thái bình hưng quốc thứ 5 (980) đời Tống, sư cùng với ngài Thí hộ đến Biện kinh. Vua mời vào yết kiến, ban cho sư áo đỏ và ban sắc cùng xem kinh Phật bản tiếng Phạm. Bấy giờ vua mới quyết định cho phiên dịch và truyền bá kinh Phật và sai quan Trung sứ là Trịnh thủ quân xây viện Dịch kinh ở mé tây chùa Thái bình hưng quốc. Tháng 6 năm Thái bình hưng quốc thứ 7 (982), Viện Dịch kinh được hoàn thành, vua liền ban sắc thỉnh các ngài Thiên tức tai, Thí hộ và Pháp thiên cùng đến ở trong viện và chuyên việc dịch kinh, vua ban hiệu cho ngài Thiên tức tai là Minh Giáo Đại Sư. Tháng 7 cùng năm, sư dâng lên vua kinh Tân dịch Thánh Phật mẫu tiểu tự bát nhã ba la mật đa 1 quyển. Năm sau, sư dịch kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vương 4 quyển, đồng thời, sư tâu xin vua lệnh cho Lưỡng nhai tuyển chọn 50 đồng tử để học tập tiếng Phạm. Từ đó, sư dịch kinh không nghỉ. Năm Ung hi thứ 2 (985), vua ban Triều tán Đại phu thí Hồng lô thiếu khanh cho sư, năm sau, vua soạn Ngự chế Tam tạng Thánh giáo tự. Cứ theo Đại trung tường phù pháp bảo lục quyển 6 thì vào năm Ung hi thứ 4 (987), sư vâng chiếu đổi tên là Pháp hiền. Từ tháng 7 năm Thái bình hưng quốc thứ 7 (982) đến tháng 10 năm Ung hi thứ 4 (985), ngài Thiên tức tai dịch tất cả 18 bộ 57 quyển kinh, nhập tạng khắc in lưu hành khắp trong nước. Sau đó, sư tiếp tục phiên dịch được các kinh quĩ như: Kinh Chúng hứa ma ha đế 13 quyển, kinh Diệu cát tường tối thắng căn bản đại giáo vương 3 quyển, kinh Diệu cát tường du già đại giáo kim cương bồi ra phạ luân quán tưởng thành tựu nghi quĩ, kinh Tần bà sa la vương 1 quyển... Tháng 8 năm Hàm bình thứ 3 (1000), sư thị tịch, thụy hiệu Tuệ biện. [X. Phật tổ thống kỉ Q.43, 44; Phật tổ lịch đại thông tải Q.26; Bổ tục cao tăng truyện Q.1]. THIÊN TÝ THIÊN BÁT MẠN THÙ THẤT LỢI BỒ TÁT Gọi đủ: Ngũ đính ngũ trí tôn thiên tý thiên thủ thiên bát thiên Phật Thích ca mạn thù thất lợi bồ tát. Gọi tắt: Thiên bát văn thù. Bồ tát Văn thù nghìn tay nghìn bát, là 1 trong Ngũ tựVăn thù. Trong động Thiên Phật ở Đôn hoàng có 2 loại bích họa về vị Bồ tát này. Theo sự biên chép của ông Bá hi hòa (P.Pelliot) thì ở động thứ 6 còn giữ được bức bích họa vẽ bồ tát Văn thù ngồi kết già trên hoa sen báu lớn ở núi Tu di, trên đầu có 5 búi tóc, chính giữa mũ báu có 1 đức Phật, trang sức bằng trăm thứ báu anh lạc, vòng xuyến, áo trời, tay phải tay tráí thứ nhất co lại để ở trước ngực, tay trái cầm bát, trong bát đặt Phật Thích ca, ngón thứ nhất, ngón thứ hai của tay phải ấn cạnh miệng bát; tay phải tay trái thứ 2 kết ấn pháp giới định đặt ở trước rốn, giữa lòng bàn tay để bát, trong bát cũng có Phật Thích ca; nghìn cánh tay còn lại chia làm 6 tầng vây quanh toàn thân, tạo thành 1 vòng tròn ánh sáng lớn, tất cả có 200 cánh tay, 200 chiếc bát. Còn bức họa ở động thứ 72 cũng giống như bức trước, đội mũ báu Ngũ Phật, có khoảng 350 cánh tay, tầng tầng vây quanh, tạo thành 1 vòng tròn lớn, cực kì hoành tráng, mĩ lệ. Hai bức bích họa này đều được vẽ vào cuối thời Ngũ đại đầu đời Tống và được liệt vào hàng đẹp nhất trong các bích họa ở động Thiên Phật.[X.kinh Đại thừa du già kim cương tính hải Mạn thù thất lợi thiên tí thiên bát đại giáo vương Q.1, 5; Les Grottes de Touen- Houang, I, II, by Pelliot].
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
tả tà tà tá tả ta tạ tà tả taTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)