Đức Phật về thăm Vua cha lần cuối diễn ra như thế nào?
Hỏi: Sự kiện Đức Phật về thăm Vua Cha lần cuối diễn ra như thế nào?
Hỏi: Vua Suddhodāna đã chứng đắc Thánh Quả A-La-Hán khi nào?
Đáp: Vào mùa hạ thứ năm, Lần thứ hai Đức Phật về thăm Vua Tịnh Phạn khi ông lâm trọng bệnh.
Hỏi: Sự kiện Đức Phật về thăm Vua Cha lần cuối diễn ra như thế nào?
Điều luật đức Phật ban hành theo yêu cầu của Vua Tịnh Phạn là gì?

Đáp:
Khi đức Thế Tôn sắp nhập hạ thứ năm Ngài cùng năm ngàn vị Tỳ-khưu ngự về xứ Vesàlì nhập hạ ở tư thất gọi là KUTÀGÀRASÀLA ở rừng gần thành Vesàlì .
Trong năm đó đức Tịnh Phạn Vương lâm trọng bịnh, tất cả lương y trong xứ được triệu đến chữa bịnh cho Ngài, tất cả hoàng thân nhứt là lịnh bà Gotami hết lòng lo chăm nom săn sóc nhưng bịnh không hề thuyên giảm, thân hình càng ngày càng tiều tụy, Ngài không nằm yên được vì chứng bịnh hành hạ. Ngài than rằng: Ta thọ khổ rất nhiều. Bỗng dưng trong khi ấy Ngài lại nhớ đến người con yêu quí duy nhứt của Ngài là đức Thế Tôn, Ngài mới nghĩ rằng: “Phải chi có đức Thế Tôn nơi đây, Ngài sờ vào đầu ta, còn đức Ananda rờ vào hai bên thân trái và phải của ta, còn Ra Hầu La cháu nội ta rờ vào hai chân ta, thì sự khổ sở của bịnh tình hành hạ ta chắc chắn sẽ thuyên giảm.”
Lúc bấy giờ ấy bằng đại bi định - đức Thế Tôn xem thấy phụ vương Ngài đang lâm trọng bịnh, đang bị bịnh tình hành hạ nằm không yên và rất nhớ đến Ngài cùng Nanda, Ananda và Ra Hầu La cháu đích tôn của Ngài. Ðức Thế Tôn mới nghĩ rằng: Ta nên trở về thăm viếng săn sóc bịnh tình cho phụ vương.
Ðức Thế Tôn liền gọi đức Ananda đến và dạy rằng: Ananda nầy, chúng ta nên về thăm đức vua Tịnh Phạn. Chúng ta chỉ còn được gặp mặt Ngài lần nầy là lần chót. Hơn nữa đức vua đang có tâm hướng về chúng ta, Ngài mong ước được gặp chúng ta; đây là cơ hội đặc biệt chúng ta gặp lại Ngài. Chư Thánh Tăng ở nơi nào ngươi hãy đến nơi ấy cho các vị ấy hay rằng: Như Lai về thành Ca Tỳ La Vệ thăm phụ vương.
Sau đó đức Thế Tôn dùng thần thông bay đi chư Thánh Tăng cũng theo Ngài tùy theo hạ cao thấp đi một hàng trông thật đẹp mắt. Khi đến thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật cùng chư Thánh Tăng ngự ngay vào cung vua đang ngự. Ðức Phật ngự nơi đầu long sàng vừa tầm mắt đức vua trông thấy. Ðức Thế Tôn trông thấy Phụ hoàng thân hình tiều tụy lấy làm thương hại, Ngài liền phán hỏi căn bịnh và đang đau nhức nơi nào. Ðức vua nghe những lời han hỏi của đức Thế Tôn lấy làm cảm động rưng rưng đôi hàng lệ và bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn; sự đau khổ của cơn bịnh không biết kể sao cho hết, trẫm không còn sống thêm được nữa rồi.
Ðức Thế Tôn dạy: Tâu Ðại vương, xin Ðại vương đừng nghĩ như vậy. Ðức Thế Tôn liền đưa tay mặt ra đồng thời phát nguyện rằng:
– Nếu Như Lai đã có hành ba mươi pháp Ba la mật quí báu cao thượng trong bốn A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp vì cố ý đem sự lợi ích đến cho chúng sanh, xin do nơi oai lực của phước báu này xin cho sự đau khổ ấy tiêu diệt. Ðức Thế Tôn phát nguyện xong rờ vào đầu của đức Tịnh Phạn Vương, sự đau đớn vì cơn bệnh thuyên giảm ngay.
Khi ấy đức Ananda đảnh lễ đức Thế Tôn xong đến gần long sàng của đức vua, rồi phát nguyện rằng:
– Tôi là người hằng theo hầu Phật như bóng với hình, đây là lời thành thật của tôi, xin cho khi tôi dùng tay rờ vào mình của bá phụ, tôi xin cho Ngài được giảm sự đau khổ vì cơn bịnh hành hạ. Ðức Ananda liền rờ vào mình đức vua thì căn bịnh thuyên giảm ngay lập tức.
Ðức Nanda liền đến đảnh lễ Phật và cũng đến nơi long sàng rồi phát nguyện rằng:
– Nếu tôi là người hành đúng theo lời giáo huấn của đức Ðại Giác. Tôi xin nguyện rằng: Do nhờ oai lực hành theo Thánh pháp ấy khi tôi rờ vào mình của phụ vương tôi xin cho căn bịnh được tiêu tan. Khi ngài rờ vào đức vua cảm thấy được mạnh khỏe như xưa.
Ðức Ra Hầu La cũng đến gần Phật đảnh lễ xong đến bên long sàng và phát nguyện rằng:
– Khi đức Thế Tôn còn là vị đại Bồ Tát trong kiếp Vesantara , Ngài hành hạnh đại thí, Ngài có bố thí tôi cho ông Bà-la-môn tên Jùjaka. Tôi vâng lời Ngài theo ông Bà-la-môn ấy không hề dám cãi và buồn phiền Ngài trong thâm tâm. Nếu điều ấy đúng theo sự thật mà tôi đã hành thì do nhờ oai lực công đức ấy xin cho khi tôi rờ vào chân của nội tổ tôi thì căn bịnh của Ngài tiêu tan đi lập tức. Ngài liền rờ vào chân đức vua. Khi ấy đức vua cảm thấy hết bịnh.
Khi Ngài cảm thấy trong thân thể được thơ thới an vui như đã thoát khỏi cơn bịnh hiểm nghèo. Ngài liền ngồi dậy tỏ tâm hoan hỉ đưa tay lên khỏi đầu đảnh lễ đức Phật và chư Tăng.
Ðức Thế Tôn biết rằng: Ðức vua đã hết bịnh. Ngài liền dùng trí tuệ quan sát coi phụ vương còn thọ được bao lâu nữa. Ngài biết rằng: Ðức vua chỉ còn thọ được bảy ngày nữa thôi, và Ngài hiểu rằng: Ðức vua còn có duyên lành đắc quả A-la-hán trong kiếp nầy do nơi Ngài tiếp độ. Ngài liền bắt đầu thuyết pháp cho đức vua nghe bảy ngày đêm liền không ngừng nghỉ.
Ðức vua yêu cầu đức Thế Tôn rằng:
– Bạch đức Thế Tôn, Ngài là đấng Ðại Từ bi chịu cực khổ thuyết pháp cho trẫm nghe cả bảy ngày đêm hầu đem sự lợi ích cho trẫm.
Ðức Thế Tôn liền thuyết bài pháp tên là ANICCÀ (nghĩa là Pháp vô thường). Ðại cương như vầy: Tâu Ðại vương, tất cả sanh mạng của chúng sanh rất là bé nhỏ, không trường tồn được, đời sống con người mau lẹ như làn chớp chưa trông thấy thì đã mất rồi, mỗi ngày qua là càng chồng chất thêm tuổi già, ngoài ra còn có bịnh vào tàn phá làm cho đau khổ, đời sống của người có cái chết là sự thật của nó, những của cải mà người ta đã có trong đời nầy sẽ bị mất, trước khi chết hay là khi chết không đem gì được về ngày vị lai, đó là định luật tự nhiên chúng sanh phải gánh chịu.
Khi nghe xong thời pháp thì đức vua cũng vừa đắc A-la-hán quả. Vì trong khi nghe Ngài quán tưởng theo Minh sát tuệ, Ngài trông thấy thật rõ từng chi tiết của pháp Tứ Ðế, Ngài diệt trừ tận gốc của vô minh và si mê nên không còn luân hồi nữa.
Ðức vua đắc A-la-hán quả với thần thông nên Ngài dùng trí tuệ quan sát biết rõ nhân duyên của mình, nên Ngài bạch Phật rằng:
– Bạch đức Thế Tôn hôm nay trẫm đã giải thoát khỏi lưới của luân hồi, trong thấu rõ Niết bàn bằng Tuệ. Tuổi thọ của trẫm còn rất ít trẫm xin đảnh lễ đức Ðại Giác, trẫm phải nhập diệt ngày hôm nay.
– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương hãy tùy tiện, liệu lấy thời giờ (ý đức Thế Tôn dạy hãy coi giờ nào đúng vào lúc hết tuổi thọ).
Tất cả hoàng tộc và các phi tần nhứt là bà Gotamì nghe vậy lấy làm buồn khổ thương yêu Ngài nên đều than khóc náo động cả hoàng cung.
Ðức Tịnh Phạn Vương thấy vậy mới dạy rằng:
– Hỡi nầy các người, xin các người đừng than van khóc lóc buồn thương, vì đời người sanh ra trong vòng luân hồi phải có ngày chia ly với tất cả những nhân vật thương yêu quí mến, và thường hay rung động vì các pháp thế gian nhứt là kinh sợ tử thần. Sau khi ta chết thì lần lượt đến các người kẻ trước người sau, đó là con đường cuối cùng của đời người, danh vọng tiền tài không đem lợi ích gì đến ta. Vậy các người nên rán lo tu hành để tìm nơi bền vững lâu dài không tiêu diệt, bất di bất dịch.
An ủi quyến thuộc xong Ngài liền cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn và bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn, những tội lỗi nào mà trẫm đã dễ duôi do thân, khẩu, ý phạm với đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn mở lượng Từ Bi tha tội lỗi cho trẫm. Trẫm xin từ giã đức Thế Tôn nhập Niết bàn. Dứt lời Ngài nằm lại long sàng nhập đại định rồi tịch diệt luôn.
Theo Đại Phật Sử, Mingun Sayadaw.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Lời nói của Phật có bao nhiêu đức tánh?
Đức PhậtHỏi: Lời nói của Phật có bao nhiêu đức tánh?
Hội chúng của đức Phật gồm những gì?
Đức PhậtHỏi: Hội chúng của đức Phật Gồm những gì?
Tám mươi tướng tốt phụ của đức Phật gồm những gì?
Đức PhậtHỏi: Tám mươi tướng tốt phụ của Đức Phật gồm những gì?
Do đâu đức Phật có tướng hai hàm răng luôn trắng bóng và đều đặn?
Đức PhậtHỏi: Do đâu mà Đức Phật có đại nhân tướng hai hàm răng luôn trắng bóng và đều đặn?
Xem thêm














