Giáo dục nhân cách trong giáo dục Phật giáo
Những trường hợp bất thường về nhân cách mà các nhà chuyên môn gọi là bệnh nhân cách chính là bệnh chấp ngã, chấp ngã trong các lĩnh vực khác nhau về ý nghĩ, về tâm lý, về ứng xử, hành động. Giáo dục Phật giáo có thể điều chỉnh, chữa trị những trường hợp bất thường ấy.
Khái niệm về nhân cách
Một cách tổng quát, nhân cách là tính cách đặc biệt của một con người trong suy nghĩ , cảm nhận và thái độ hành xử của người ấy. Nhân cách bao gồm thể cách, thái độ, ý kiến và được thể hiện trong quan hệ với những người khác. So với hành vi, thói quen thì nhân cách có tính cố hữu hơn và có tính chắt lọc từ những gì thu đạt được trong quan hệ của một người với môi trường và xã hội.
Nhân cách trong giáo dục Phật giáo
Con người theo quan điểm Phật giáo là con người ngũ uẩn, tập hợp của 5 thành tố : sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Khi con người có ý thức về mình thì con người đã là một chúng sinh của cõi hữu vi, của thế giới hiện tượng, vô thường, khổ đau, tức là con người được hình thành bằng ngũ uẩn. Vậy, bàn đến nhân cách là bàn đến những nét chung và riêng cũa những hành vi, của tâm lý, cách cư xử, tính tình của một cá nhân, nghĩa là bàn đến nhân cách hay tính chất của cái tập hợp ngũ uẩn.
Giáo dục nhân cách học sinh qua “Ngày hội bóng đá và kỹ năng sống”
1. Con người ngũ uẩn:
Ngũ uẩn gồm sắc (vật chất, hình tướng), thọ (cảm nhận, cảm giác khi tiếp xúc với các sự vật, đối tượng), tưởng (suy nghĩ, so sánh, đối chiếu), hành (vận động, hành động của thân, miệng, ý), thức (cái biết do các quan năng mang lại). Con người theo Phật giáo là tập hợp của 5 thành tố trên, ngoài ra không có gì khác. Tập hợp là một từ bao hàm trong nói ý nghĩa hữu vi, bị điều kiện hay bị chi phối bởi nhân duyên. Mỗi một thành tố tự nó dũng là do nhân duyên, tức là không có cái sắc nào tự đứng một mình, không có cái thị nào, tưởng nào, hành nào, thức nào tự thành lập mà không có sự hiện diện, hỗ trợ của các thành tố khác. Tóm lại, tất cả các thành tố và tập hợp các thành tố đều do nhân duyên, như vậy lý duyên khởi là yếu tính của sự thành lập ngũ uẩn. Và đã như vậy thì tập hợp ngũ uẩn hay con người xét cho cùng không thể hàm chứ một ngã tính nào cả. Không có ngã tính, không có ngã thì cái gọi là nhân cách con người chỉ là cái tạm thời, quy ước mà thôi.
2. Nhân cách:
Bản chất tối hậu của con người là vô ngã, nhưng vì con người là con người của cõi hữu vi, mọi người đều có tâm lý, thái độ, hành xử, tư duy… giống và khác với những người khác nên chúng ta phân biệt nhân người nói chung và nhân cách của một người nói riêng.
Con người là tập hợp duyên khởi, cụ thể là tập hợp ngũ uẩn, tức là một sự khổ theo quan điểm của đạo Phật. Con người tự nhận mình có ngã là do thói quen từ vô thỉ, thói quen chấp trước, phân biệt, cho rằng cái tập hợp ngũ uẩn là ngã. Cái thức (A lại da) mang các chủng tử được huân tập từ bao đời kiếp được nhân là một ngã linh hồn. Cái hoàn cảnh chung của cái sức sống tương tục, hay nói khác đi, là nghiệp hay nghiệp lực của thế giới này (hay cộng nghiệp) khiến cho người ta có những thái độ hành xử, tư duy giống nhau như đau buồn trước sự mất mát, giận dỗi khi bị xúc phạm, vui mừng khi xứng ý. Như vậy, nghiệp đã tạo ra nhân cách, hay nói cách khác đi, nhân cách của một người chính là nghiệp của người ấy.
Tấm áo không làm nên thầy tu, học vị không tạo nên nhân cách
Phật giáo chấp nhận các học thuyết về tâm lý, về nhân cách của các triết gia, các nhà khoa học hiện đại nhưng điều đặc biệt là Phật giáo còn đi sâu hơn những học thuyết ấy trong việc xem các bản năng, dục tình, ngã, siêu ngã, tiềm thức có gốc gác trong những đời trước. Trong khu bàn về nguyên nhân của nhân cách trong Phật giáo, người ta đụng chạm đến 12 chi phần duyên khởi, 5 thành tố ngũ uẩn, 3 tính chất căn bản của nhân cách là: tham, sân, si.
Tham, sân, si là biểu hiện của tự ngã sai lầm, của cái giả ngã khổ đau nhưng lý duyên khởi cho ta biết rằng ngã là không, cho nên cái tính không vẫn là bản chất của nó. Mặt khác, vô tham, vô sân, vô si là biểu hiện của cái vô ngã. Đây là hai mặt của một nhân cách. Do hai mặt này, nhân cách không thiện và nhân cách thiện đều có trong một cái nhân. Thiện và không thiện là hai đặc tính nhân cách : có gây trở ngại cho cá nhân và cho người khác hay không. Như vậy, thiện hay ác là tính chất của mọi thái độ, cảm xúc, hành động, tâm lý và tư duy của con người nói chung.
Phật giáo với lý thuyết về A lại da còn quan niệm về nhân cách thứ ba vô ký ( không thiện không ác). Điều này rất quan trọng đối với giáo dục nhân cách, chúng ta sẽ bàn tiếp sau này.
Nhưng đối với một cá nhân là đối tượng của giáo dục là nhân cách riêng của cá nhân ấy mới quan trọng. ‘’Bá dân bá tánh’’ (trăm người là trăm tánh) hẳn là rất đúng trong ý nghĩa rằng mỗi người có một nhân cách riêng, không có hai nhân cách hoàn toàn giống nhau. Tại sao như vậy?
Ta hãy trở lại tập hợp ngũ uẩn. Do tập khí từ các đời quá khứ và đặc biệt do hoàn cảnh nhân duyên hiện tại, trong đó yếu tố quan trọng nhất là giáo dục mà chức năng vận hành của từng thành tố và ‘’cấu trúc ‘’ của 5 thành tố của mỗi người không giống nhau. Việc không giống nhau của 5 ngũ uẩn này khiến cho mỗi người có một nhân cách riêng.
Việc phân loại nhân cách dựa vào trắc nghiệm tâm lý, thái độ là hết sức cần thiết cho giáo dục nói chung và việc phân tích cho được nguyên nhân của một loại hình nhân cách là rất cần thiết cho việc giáo dục nhân cách.
Nhân cách con người hiện nay mang dấu ấn Phật giáo
3. Giáo dục nhân cách:
Nhân cách, nói đến chỗ tuyệt đối, tối ngã là vô ngã. Giáo dục nhân cách là làm sao chuyển cái giả ngã thành vô ngã.
Theo pháp tướng duy thức học, cái chấp ngã là chứ năng của Mạt na, Mạt na nhìn vào A lại na mà cho rằng A lại da là ngã, là ta. Vậy, ‘’ngã’’ được hình thành do nội dung mà A lại da chứa đựng và sự chấp ngã của Mạt na. Để tiến đến vô ngã, một người phải phá bỏ chấp trước và mặt khác không làm phong phú cái nội dung ngã của A lại da bằng cách điều phục thân, khẩu, ý trong hành động, đồng thời tạo thêm và phát triển các chủng tử thiện, hạn chế sự hiện hành của các chủng tử ác. Để đạt mục tiêu ấy, thiền định là phương pháp tốt nhất. Thiền định giúp ta buông bỏ phân biệt, chấp trước, phát triển trí tuệ để nhìn rõ nguyên nhân khổ đau.
Giáo dục Phật giáo giúp con người phát triển trí tuệ để thấy rõ ngũ uẩn là không, là vô ngã. Phật giáo đề cao 6 ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bốn đức của ba la mật là khổ, không, vô thường và vô ngã. Chính việc thực hành lục ba la mật là một phương pháp rèn luyện nhân cách tuyệt vời, là phương cách trị liệu hữu hiệu nhất đối với những bệnh nhân cách (personality disease) mà các nhà phân tích nhân cách hiện đại đã phân tích và tìm cách chữa trị.
Ngoài ra, nhờ việc phân tích ngũ uẩn và áp dụng giáo lý duyên khởi nên giáo dục nhân cách của Phật giáo có thể xếp loại nhân cách và phương pháp giáo dục, trị liệu cho từng nhân cách: người có dục tham nặng thì cần tu tập quán vô thường, vô ngã và thực hành bố thí. Người nặng sân hận thì cần thực hành tứ vô lượng tâm.
Như vậy, cái nhân cách tốt đẹp nhất là cái nhân cách vô ngã. Nhân cách càng gần với vô ngã thì càng tạo hạnh phúc cho cá nhân mang nhân cách ấy và góp phần tạo hạnh phúc cho những người chung quanh.
Mọi đau khổ đều là những thể hiện của tham, sân và si: ngã chấp là động cơ vận hành của tam độc này. Càng vô ngã thì càng được giải thoát, tức càng ít khổ đau. Sự thật này là kinh nghiệm sống hàng ngày mà người ta không để ý đến. Giáo dục phải nhắc nhở cho người ta, phải khuyến khích người ta thực hiện vô ngã. Như thế, nói một cách khác, giáo dục, nhất là giáo dục nhân cách, là phải xem vô ngã là mục đích tối hậu.
Những trường hợp bất thường về nhân cách mà các nhà chuyên môn gọi là bệnh nhân cách chính là bệnh chấp ngã, chấp ngã trong các lĩnh vực khác nhau về ý nghĩ, về tâm lý, về ứng xử, hành động. Giáo dục Phật giáo có thể điều chỉnh, chữa trị những trường hợp bất thường ấy. Con đường vô ngã chính là con đường của giáo dục Phật giáo vậy.
>Xem thêm video: Lợi ích của giới luật:
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Duyên khởi là cốt tủy, là hạt nhân của mọi triết lý Phật giáo
Kiến thức 11:20 03/11/2024Các triết lý quan trọng của Phật giáo như Vô ngã, khổ, vô thường, tính không, nhân quả đều được đặt trên nền tảng cơ sở của duyên khởi.
Tìm lại chính mình
Kiến thức 09:00 03/11/2024Một lần Đức Phật đang tĩnh tọa ở bìa rừng thì có 30 thanh niên từ đâu chạy tới, thấy Đức Phật, họ hỏi: Thưa Sa-môn, Ngài có thấy một cô gái chạy qua đây không?
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Xem thêm