Niệm công đức và phước báu chư thiên

Con người sống ở đời thường mong cầu sự sung túc đầy đủ về vật chất, sắc đẹp và tuổi thọ. Như những câu chúc cửa miệng vào đầu năm thường là sống lâu trăm tuổi, thọ tỷ nam sơn hay trẻ mãi không già, công việc tấn tới, tiền vô như nước... chính những sự mong cầu ấy khiến người ta tìm cách cầu xin thần thánh ban phước cho mình được như sở cầu.

Lại nữa, người đời thường có câu “sướng như tiên” hay “đẹp như tiên.” Một số người vì sống ở đời chịu nỗi cực khổ vất vả đến bức bách, lại được nghe rằng có cõi trời rất sung sướng, được phước báu đầy đủ, ăn sung mặc sướng, khi muốn ăn uống chỉ cần nghĩ là sẽ có mà không cần phải làm lụng vất vả gì.

Chính vì những điều ấy mà một số người khi chết đi muốn được tái sanh về cõi trời để được hưởng sung sướng.

Cõi trời tiếng Phạn là Deva. Deva còn có là nghĩa là Thần, Thiên thần, Thánh, Chúa trời Thượng đế, người được tôn sùng (1)... Deva là danh từ chỉ cho chư thiên, một loại chúng sanh sống trong lục đạo (sáu cõi: trời, người, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục). Ở cõi thiên chúng sanh sống sung túc, hạnh phúc hơn các cõi còn lại, song vẫn còn chịu sự chi phối của sanh tử luân hồi. Nhờ nghiệp thiện lành đã tạo mà chư thiên có tuổi thọ rất dài và sung sướng. Tuy nhiên chính cuộc sống sung sướng và tuổi thọ dài lại là chướng duyên khiến họ khó tiếp xúc được với Phật pháp, vì không tiếp xúc với khổ đau nên không hiểu được nỗi khổ là gì nên họ không phát tâm tu tập Chánh pháp để dứt trừ khổ đau.

Niệm công đức và phước báu chư thiên 1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Ngay trong tín ngưỡng của người dân Ấn Độ, chư thiên là những nhân vật cao quý có vị trí quan trọng. Mahābrahmā (Đại Phạm-thiên), đấng tối cao là người sáng tạo ra muôn vật của Bà-la-môn giáo, một tín niệm trong giáo lý Vệ-đà, có trước Đức Phật Thích-ca. Thiên Chúa giáo cũng quan niệm Chúa trời là đấng tối cao trong cõi trời là người sáng tạo ra muôn vật, con người sống mà nghe theo lời Chúa thì khi chết được tái sinh cõi trời còn trái lại thì chết đọa vào cõi địa ngục.

Trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa đều có đề cập đến chư thiên của ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Trong đó cõi trời là cảnh giới của phước báu sung mãn có được nhờ hành giả tu tập thiện pháp. Chư thiên là những vị ở cõi trời được nhắc đến là những vị hộ pháp, hộ trì chánh pháp, như trời Phạm-thiên, trời Đế-thích... Kinh Thánh cầu có nhắc đến Phạm-thiên Sahampati đã ba lần thỉnh Đức Thế Tôn truyền bá Chánh pháp: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe) những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp” (2).

Có rất nhiều câu chuyện liên quan đến chư thiên được nhắc trong kinh điển Nguyên thủy, như kinh Pháp cú, Thiên cung sự, kinh Tương ương: thiên Tương ưng Chư thiên... Như vậy không chỉ có con người là đối tượng nhận được sự giáo hóa của Phật và chư vị thánh tăng mà tất cả chúng sanh trong ba cõi đều có thể tu học và nhận sự giáo hóa của Phật pháp. Tùy vào nghiệp lực mỗi chúng sanh mà có sự tiếp nhận Phật pháp khác nhau, nhưng cuối cùng đều đi đến một đích là giải thoát, theo như kinh điển Đại thừa thì nói đó là “tất cả chúng sanh và Phật đồng một thể tánh giác ngộ”.

Theo Phật giáo thì có 28 cõi thiên, trong đó có 6 cảnh trời thuộc dục giới, 18 cảnh thuộc sắc giới và 4 cảnh trời thuộc vô sắc giới.

Chư thiên là cảnh vẫn còn nằm trong tam giới, chịu sự chi phối của sanh tử, thế nhưng so với cõi người vẫn cao hơn một bậc, hưởng được phước báu thù thắng hơn. Không phải ai cũng muốn sanh thiên là được sanh về; ngoài ước nguyện, còn phải tu tập các pháp lành, bởi đây là cảnh của phước báu có được do công đức của việc thiện lành.

Niệm thiên cũng là một pháp tu mà trong các kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa đều nhắc đến. Là một trong mười pháp tu tùy niệm theo kinh Nguyên thủy. Luận Trí độ cũng nhắc đến niệm thiên trong phần tám niệm; kinh Đại bát-Niết-bàn có đề cập trong phẩm Hạnh thứ hai mươi…

Niệm là nghĩ nhớ, niệm thiên là nhớ đến chư thiên, nhưng ở đây niệm thiên không phải là cầu phúc ở cõi thiên mà là niệm về công đức của chư thiên. Công đức ấy mình có không? Và mình phải làm gì để đạt được phước báu, công đức ấy. Theo Thanh tịnh đạo luận đề cập thì người muốn niệm thiên thì trước tiên phải có những đức tính của tín, nghĩa là niềm tin. Tin vào mình có đủ công đức như vậy, mới tin mình có đủ khả năng hưởng phước báu của các cõi trời và dần dần hướng đến cảnh giới của chư Phật. Có được niềm tin đó hành giả dõng mãnh tu tập các thiện pháp, nhờ vậy mà không đọa lạc.

Đó chính là niệm thiên trong Phật giáo: “Đầy đủ với giới như vậy, chư thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta... Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta... Ðầy đủ với thí như vậy... Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ tuệ như vậy... Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Khi người ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của mình và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận, như thể là vàng bị uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi” (3).

Chúng ta niệm thiên bởi theo kinh Nguyên thủy nói rằng: “Nếu có Tỳ-kheo nào chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, cột niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm thiên. Thân, miệng, ý trong sạch, không tạo hạnh nhơ; thực hành giới thành tựu thân. Thân phóng ánh sáng tỏa khắp mọi nơi, thành tựu thân trời kia. Quả báo lành thành tựu thân trời kia. Các hành đầy đủ mới thành thân trời. Như vậy, các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm Thiên, liền được thành tựu đầy đủ quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm thiên, liền sẽ được những thứ công đức thiện này” (4).

Kinh A-hàm lẫn Nikaya đều đề cập đến hành giả tu tập niệm thiên, trước tiên phải có lòng tịnh tín và tu tập tịnh giới, nhờ tu tập tịnh giới mà thành tựu được các pháp còn lại như thí, văn và tuệ mới đủ công đức sanh thiên.

Theo kinh Đại bát-Niết-bàn (bản Bắc) thì hành giả niệm thiên chính là niệm đệ nhất nghĩa thiên: “Đó là tôi từng nghe có trời đệ nhất nghĩa, chính là chư Phật và Bồ-tát thường chẳng biến đối, vì thường trụ nên chẳng có sanh, lão, bịnh, tử. Tôi vì chúng sanh mà cầu đệ nhất nghĩa, vì trời đệ nhất nghĩa có thể làm cho chúng sanh dứt trừ phiền não, như cây như ý. Nếu tôi có tín, niệm, tấn, định và huệ có thể đặt trời đệ nhất nghĩa này. Đây gọi là Bồ- tát niệm thiên” (5).

Niệm thiên theo kinh Đại bát-Niết-bàn (bản Pali) chính là niệm về tự tánh thanh tịnh, niệm về Phật thừa, tánh Không và việc tu tập của hành giả không ra ngoài niềm tin nơi Chánh pháp với giới, thiền định và trí tuệ. Hành giả tu tập dứt trừ phiền não chứng đắc Niết-bàn đó chính là thành tựu niệm thiên: “Có một pháp, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Thiên” (6).

Như vậy niệm thiên là một pháp tu trong Phật giáo đem lại những lợi ích thiết thực cho hành giả.

Niệm phước báu chư thiên đó chính là suy nghĩ về những gì mà chư thiên đã đạt được, chúng ta thấy rằng có những chúng sanh được sanh về cõi này an vui, được sung túc về vật chất, về sắc đẹp, được làm chư thiên, chúng ta thấy rằng họ vì sao mà được phước báu như vậy?

Người muốn sanh về cảnh giới lành thì điều kiện cần và đủ trước tiên cần phải quy y Tam bảo. Tam bảo là ba ngôi quý báu ở đời có gồm có Phật, Pháp và Tăng. Ở đời người ta cho vàng bạc đá quý là bảo vật, vì chúng đem lại sự giàu sang và thỏa mãn ham muốn của họ. Nhưng theo Phật giáo, những thứ đó chỉ thuộc về vật chất, nằm trong năm thứ ngũ dục cần phải loại bỏ vì chướng ngại sự tu hành, không đưa đến giải thoát. Chỉ có việc nương tựa vào ba ngôi báu của Chánh pháp mới có khả năng giúp con người khỏi đọa lạc và giải thoát khổ đau. Vì thế người muốn sanh về cảnh giới lành dù là cõi trời, trước hết phải quy y Tam bảo. Tam bảo dẫn dắt chúng ta thực hành những điều thiện lành một cách đúng đắn và như pháp. Từ đó công đức dễ dàng phát sinh mà thành tựu được ước muốn sanh thiên.

Khi người đã quy y Tam bảo thì tiếp theo phải thọ trì ngũ giới là năm giới căn bản của người Phật tử. Giới luật làm chuẩn mực cho người thọ trì nhờ đó mà xây dựng phẩm hạnh cao quý cho họ, không khiến họ phạm vào những điều xấu ác, hành động thân khẩu ý luôn trong sạch. Nhờ đó tạo được phước báu lành ở đời sau.

Một nhân nữa sanh phước báu giàu sang và sung túc ở kiếp đương lai chính là thực hành tâm bố thí rộng rãi cho mọi người với tâm từ bi và hỷ xả, đây chính là những nhân lành để cần thiết để có phước báu sanh về cõi thiên.

Trong các kinh điển Đại thừa lẫn Nguyên thủy đều có nói người thực hành pháp bố thí sau khi mạng chung có thể hưởng phước báu cõi trời.

Theo Tăng chi bộ, chương Tám pháp có nêu ra tám lý do người thực hành bố thí, trong đó có một lý do “bằng cách bố thí này, ta sẽ được tái sinh vào cõi tốt đẹp, vào thiên giới, sau khi chết” (7).

Cũng vậy kinh Địa Tạng: Trong đời vị lai, như có các vị Quốc vương cùng hàng Bà-la-môn... gặp những người già yếu, tật bệnh và kẻ phụ nữ sinh đẻ, nếu trong một niệm mà đầy đủ lòng đại từ, đem thuốc men, đồ ăn thức uống, mền chiếu... bố thí cho, khiến cho họ được an vui, thì phước lợi đó không thể nghĩ bàn, trong một trăm kiếp thường được làm thiên chủ trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường được làm thiên chủ cõi Lục dục thiên và rốt ráo sẽ được thành Phật, vĩnh viễn không còn đọa vào ác đạo, thậm chí trong trăm ngàn đời, tai không hề nghe đến tiếng khổ.

Như vậy không chỉ có kinh Nguyên thủy mà cả kinh điển Đại thừa cũng đều coi bố thí là hạnh cao quý, được tiếng lành đồn xa. “Vì bỏ lòng giận hờn mà thực hành bố thí, nên thường được của báu không ai xâm đoạt, tự mình mau thành đạt tâm trí vô ngại, các căn tốt đẹp, người thấy kính ưa”.

Tuy nhiên bố thí là đem vật của mình có cho người, nhưng để đạt công đức thì không phải là pháp dễ thực hiện mà cần có sự thực hành tinh tấn, chánh niệm và có trí tuệ. Người tu tập hạnh xả thí để cầu sanh thiên cũng vậy. Việc tu tập ở đây cũng phải đúng với tinh thần của bố thí. Tinh thần bố thí theo Đại thừa chính là tam luân không tịch giữa người cho, vật cho và người nhận. Ba thứ này đối với người tu bố thí là quan trọng, không chấp thủ, không phân biệt và không mong cầu. Với tâm từ bi vì lợi ích cho chúng sanh mà thực hành hạnh xả bỏ. Nếu chúng ta không từ bỏ được những thứ tài sản bên ngoài thì cũng khó từ bỏ những chấp niệm đã hình thành sâu nặng từ vô lượng kiếp. Khi chấp niệm thì chỉ có đọa lạc vào cảnh giới thấp hơn loài người, chứ không thể tái sanh vào cảnh giới cao hơn như cõi trời.

Cõi trời là cảnh giới cao hơn cõi người được thọ hưởng những phước báu về tuổi thọ, sắc đẹp, và vật thực, nhờ vào sự tu tập phước đức trong kiếp quá khứ mà thành. Công đức ấy có được không ngoài việc giữ gìn trai giới và thực hành bố thí.

Phật giáo chủ trương thành tựu tuệ giác, chấm dứt sanh tử luân hồi, nơi hành giả hướng tới là cõi an tịnh Niết-bàn chứ không phải cõi trời. Tuy nhiên đối với những ai chưa đủ duyên để tu tập đạt đến Niết-bàn, thì có thể tu tập phước thiện để sinh về cõi trời, rồi từ cõi trời tiếp tục tu học để đạt đến chỗ cứu cánh.

Chú thích:

1. Thích Kiên Định, Từ điển Phạn- Anh-Việt, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2010.

2. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung bộ I, Nxb Tôn Giáo, 2012.

3. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi 3, phẩm Đáng được cúng dường, Nxb Tôn Giáo, 2005.

4. Thích Tịnh Hạnh dịch, Kinh Tăng nhất A-hàm - quyển 2 - phẩm 3: Quảng Diễm, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc; Taiwan, 2000.

5. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Đại bát-Niết-bàn, Nxb Tôn Giáo, 1999, tr.599.

6. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi 3, phẩm Trên tất cả, Nxb Tôn Giáo, 2005.

7. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi 3, phẩm Bố thí, Nxb Tôn Giáo, 2005.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cách nhận biết ma chướng trên đường tu

Phật giáo thường thức 09:03 21/11/2025

Nay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo.

Nghiệp chứa ở đâu?

Phật giáo thường thức 08:01 21/11/2025

Một lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng: “Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?”.

Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!

Phật giáo thường thức 17:28 20/11/2025

Việc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.

Tu là trở về nguồn cội, quá trình biến đổi tâm thức và tư duy

Phật giáo thường thức 16:00 20/11/2025

Tu không phải chỉ là việc đơn thuần lên chùa, ăn chay, và tụng kinh niệm Phật; cũng không chỉ là việc tìm đến những nơi hẻo lánh, xa rời thế tục.

Xem thêm