Từ điển phật học online
Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z

Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ quang hiếu tự theo Tự điển Phật học như sau:

có nghĩa là:

(光孝寺) Chùa ở phía tây bắc Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Cứ theo Quang hiếu tự chí thì lúc đầu chùa vốn là nhà cũ của Nam việt vương Kiến đức. Vào thời Tam quốc, vùng đất này thuộc nước Ngô, Ngu phiên bị giáng chức và đày ra ở đây, gọi là Ngu uyển. Khoảng năm Long hòa đời vua Ai đế nhà Đông Tấn, có vị Tam tạng người nước Kế tân đến đây mới sáng lập chùa Phật, gọi là chùa Chế Chỉ, cũng gọi là chùa Vương Viên. Khoảng năm Nguyên gia đời vua Văn đế nhà Lưu Tống, vị Cao tăng Ấn độ là ngài Cầu na bạt đà la đến chùa này sáng lập giới đàn, gọi là Đạo tràng Chế chỉ. Niên hiệu Thiên giám năm đầu (502) đời Lương, ngài Tam tạng Trí Dược từ miền Tây Ấn Độ mang cây Bồ đề đến trồng ở đây. Năm Phổ thông thứ 8 (527), Sơ tổ Đạt Ma đến trụ ở đây. Khoảng năm Trinh quán đời Đường, chùa được đổi tên Chế chỉ, Vương viên thành chùa Càn Minh Pháp Tính. Niên hiệu Nghi phụng năm đầu (676) đời vua Cao tông nhà Đường, Lục tổ Tuệ năng luận về gió động phướn động với 2 vị tăng và xuống tóc dưới gốc cây Bồ đề ở chùa này, sau thiết lập Phong phan đường, Đại giám điện, Nội giám điện. Niên hiệu Thần Long năm đầu (705), ngài Tam tạng Bát lạt mật đế người Tây Vực dịch kinh Thủ lăng nghiêm 10 quyển tại chùa này, do Tể tướng Phòng dung bút thụ. Năm Hội xương thứ 5 (845) chùa được đổi tên Càn Minh Pháp Tính thành Tây vân đạo cung. Khoảng năm Bảo Lịch (825- 826) chùa dựng Đại bi chàng. Đầu đời Bắc Tống, chùa được đổi tên là Thiền viện Càn Minh. Năm Thiệu hưng 20 (1150) đời vua Cao Tông nhà Nam Tống, chùa lại được đổi tên là Báo Ân Quảng Hiếu. Đến năm Thành Hóa thứ 2 (1466) đời vua Hiến Tông nhà Minh mới gọi là chùa Quang Hiếu. Khoảng năm Thiệu Vũ đời Minh, chùa bị quân binh nhà Thanh phá hủy. Đầu năm Khang Hi nhà Thanh, Thiền sư Nguyên Chí kiến thiết lại thành 1 tòa Thiền lâm bậc nhất miền Nam hải. Những điều ghi chép trên đây có lẽ là những sự tích có liên quan đến Phật giáo ở chùa này với vùng Quảng Châu có đúng sự thật hay không thì rất khó biện minh. Ngoài ra còn có nhiều thuyết khác nói về sự thay đổi của chùa này. Hiện nay, chùa còn những kiến trúc quí giá với phong cách kiến trúc đặc thù của vùng Hoa nam như điện Lục tổ, Đại hùng bảo điện được xây dựng vào khoảng năm Thuần hựu đời Nam Tống, tòa tháp bằng sắt ở phía tây, do ông Cung Trừng Xu đúc vào năm Thiên bảo thứ 6 (963) đời Nam Hán. Đến năm Đại Bảo thứ 10 (967) vua Nam Hán là Lưu Sưởng đúc tháp sắt phía đông, gồm 7 tầng, hình 4 góc, mặt ngoài mỗi tầng có tượng Phật, mây, người trời, chim..., kĩ thuật rất tinh xảo, nay đã bị phá hoại, chỉ còn 17 pho tượng gồm La hán, thần Hộ pháp, tín sĩ, người cúng dường... [X. Lịch đại tam bảo kỉ Q.9; Quảng đông thông chí Q.213, 229; Quảng châu phủ chí Q.88; Kim thạch tục biên Q.19; Quảng châu Quang hiếu tự cổ đại mộc điêu tượng đồ lục (Thương thừatộ) ]. (xt. Pháp Tính Tự).

Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.

Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.

Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:

Quả quá quả quả quá qua quả quả quả quá ác
Tự điển Phật học online được cung cấp bởi Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)