Thứ ba, 13/05/2025, 09:14 AM

Bát Chánh Đạo là gì?

Tám sự hành trì chân chánh tương sinh tương tức, mỗi phần đều là nhân và quả của các phần kia. Bảy sự hành trì kia cũng là nguyên nhân đưa tới chánh kiến. Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phần. Bát thánh đạo phần là tám thành phần của con đường cao quý. Trong tiếng Phạn, thánh đạo phần là āryāṣṭāṅgamārga, thánh đạo có tất cả tám chi phần.

Thứ nhất là chánh kiến mà chúng ta đã bàn. Rồi tới chánh tư duy là sự tư duy đúng đắn. Chánh ngữ là lời nói có tác dụng chuyển hóa, tháo gỡ, đem lại hạnh phúc và đánh tan mê lầm. Chánh nghiệp là hành động không tạo khổ đau, đưa lại hạnh phúc. Chữ nghiệp ở đây chỉ thân nghiệp, là hành động do thân thể ta làm. Còn khẩu nghiệp thuộc về chánh ngữ và ý nghiệp thuộc về chánh tư duy. Tiếp theo là chánh mạng. Mạng tức là phương tiện sinh sống. Chánh mạng là nghề nghiệp, là phương cách sinh sống không gây đau khổ và mê lầm cho con người, không tàn hại thiên nhiên. Chi phần thứ sáu là chánh tinh tấn. Tinh tấn là sự siêng năng. Thứ bảy là chánh niệm và sau cùng là chánh định.

Chúng ta thấy rằng quá trình của sự phát triển tuệ giác luôn luôn là niệm, định và tuệ. Tu tập chánh niệm dẫn tới chánh định và hễ có chánh định thì đạt tới tuệ giác. Tại sao trong Bát chánh đạo không nói chánh tuệ mà lại nói chánh kiến? Suy nghĩ về điều này giúp chúng ta phân biệt rõ hơn ý nghĩa chữ chánh kiến trong phạm vi tục đế và phạm vi chân đế. Đồng thời ta cũng thấy rõ hơn bảy chánh đạo khác góp phần vào sự chuyển hóa chánh kiến từ phạm vi thế gian sang phạm vi xuất thế gian như thế nào.

Bát Chánh Đạo là gì?  1
Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phần. Bát thánh đạo phần là tám thành phần của con đường cao quý.

Đứng về phần nhân, chánh kiến có thể bắt đầu bằng một số giáo lý, chưa phải là tuệ giác. Chúng ta được nghe về Tứ diệu đế, về Bát chánh đạo, về lý nhân quả thì ta mới có được một số vốn liếng nghèo nàn về chánh kiến thôi, nó có tính cách lý thuyết hơn thực hành. Tuy nhiên, nó đã mang hạt giống của chánh kiến. Nhờ quá trình văn, tư và tu mà những vốn liếng nghèo nàn của ý niệm và ngôn từ đó trở thành tuệ giác chân thật. Cái đó gọi là tuệ. Trong quá trình văn, tư, tu, chúng ta phải thực tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, v.v.. Nếu không thực hành bảy thánh đạo kia thì những lý thuyết trong kinh sách không bao giờ biến được thành tuệ giác cả, mãi mãi chúng sẽ chỉ là một mớ ý niệm trong đầu, hoặc để nói cho vui. Những điều ta học hỏi bằng khái niệm và ngôn từ có chứa những hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác; nhưng không có văn, tư, tu thì chúng chưa thể trở thành tuệ giác được. Người học đạo bắt đầu tiếp nhận những kiến thức, ngôn từ và khái niệm từ trong kinh sách, từ thầy và từ các bạn tu. Sau đó, người ấy phải thực tập Bát chánh đạo để biến cái vốn liếng nghèo nàn đó thành tuệ giác chân thật, thành xương thịt của tuệ giác chứ không phải là hình bóng của tuệ giác. Chánh kiến bắt đầu là những kiến thức có tính cách khái niệm, ngôn từ mà người học Phật ban đầu phải tiếp nhận. Nhưng không bằng lòng với một số kiến thức khái niệm và ngôn từ đó, người học Phật thực hành Bát chánh đạo để từ cái vốn liếng nghèo nàn đó ta có được tuệ giác thật, đó chính là quả. Cho nên chánh kiến có cả phần nhân và phần quả là vậy.

Chánh kiến không phải chỉ do người ngoài hiến tặng như Bụt, thầy bạn, kinh sách,… mà chánh kiến có thể phát sinh từ nội tâm của mình. Khi mà tư duy, ngôn ngữ, hành động, lối sinh sống, sự siêng năng, chánh niệm và sự định tâm của mình có một phần nào đó thì nội tâm của mình có được một ít chánh kiến. Thành ra, chánh kiến có thể từ bên trong đi ra, và cũng có thể có từ bên ngoài đi vào, những nguyên nhân nội tại và những nguyên nhân ngoại tại. Và chúng ta cũng biết rằng từ bên trong chúng ta đã có sẵn hạt giống của tuệ giác.

Bụt nói tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, tức là hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác. Giác tánh đó bị che lấp vì vô minh, buồn khổ và sầu hận, cho nên không phát triển được. Được nghe pháp, được gần gũi bạn lành và được học hỏi thì chánh kiến có cơ hội nảy mầm và nở hoa: Hạt đậu năm xưa hé miệng cười. Cho nên chánh kiến là nhân nhưng cũng là quả, và khi chánh kiến thành kết quả đó chính là tuệ trong bộ ba niệm, định, tuệ (smṛti, samādhi, prajñā). Cách dùng chữ ở đây rất hay. Chánh kiến có thể bao gồm được phần vốn liếng nghèo nàn của lý thuyết, của khái niệm. Cái đó chưa phải là tuệ, nhưng nó chứa đựng hạt giống tương lai của tuệ. Nếu ta tu tập bảy chi phần khác của Bát chánh đạo thì tuệ sẽ nảy nở. Sau đó, tuệ giác lại nuôi dưỡng tư duy, ngôn ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định và khi bảy chi phần này lớn lên chúng cũng đang nuôi dưỡng tuệ giác lớn lên. Cho nên chánh kiến tuy là mẹ của bảy chi phần khác, nhưng cũng là con của bảy chi phần khác. Cũng như lá cây, có thể nói thân cây, rễ cây, cành cây là mẹ, còn lá cây là con. Nhưng lá cây cũng đóng vai trò mẹ. Vì lá cây có bổn phận phải tiếp nhận thán khí, dùng ánh sáng mặt trời thực hiện diệp lục hóa. Mỗi chiếc lá chính là một viện bào chế, nhờ thế những chất khoáng ở trong đất đi lên, từ nhựa nguyên biến thành nhựa luyện để nuôi cây. Thành ra tất cả các chiếc lá tuy là con của cây nhưng cũng đều là mẹ của cây. Giống như vậy, chánh kiến nuôi dưỡng chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ. nhưng đồng thời cũng được chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ. nuôi dưỡng. Càng nhìn sâu chúng ta càng thấy rõ tính duyên khởi của Bát thánh đạo phần.

Khi có chánh kiến, có cái thấy vững chãi về thiện căn và ác căn; chúng ta phân biệt thế nào là căn lành và căn không lành; chúng ta phân biệt thế nào là khổ, tập, diệt, đạo. Có chánh kiến thì tự nhiên tư duy sẽ đi đúng đường, chúng ta suy nghĩ khỏi sai lầm. Có chánh kiến về duyên sinh thì chúng ta biết rằng hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào hạnh phúc của người khác, như giữa anh chị em, vợ chồng hay cha con. Thấy rồi, mỗi người sẽ không đi tìm hạnh phúc cho riêng mình nữa. Vì khi cha khổ thì con không thể nào có hạnh phúc, chồng khổ thì vợ không thể nào có hạnh phúc, anh khổ thì em không thể nào có hạnh phúc. Chánh tư duy là tư duy xem ta phải làm thế nào để cho người kia có hạnh phúc thì lúc đó ta mới thực sự có hạnh phúc. Người đi tìm hạnh phúc riêng rẽ là người không có chánh kiến, vì chánh kiến là cái thấy căn cứ trên đạo lý Duyên khởi.

Nói về chánh ngữ cũng vậy. Nếu chúng ta có chánh kiến thì tự nhiên ngôn ngữ của chúng ta sẽ đi vào đường chánh. Chúng ta sẽ không nói những điều gây hiềm khích và đổ vỡ. Nếu thấy được tính khí của ta, những ưu, nhược điểm của ta và của người khác, thì ta sẽ không nói ra những câu tạo ra địa ngục giữa hai người. 

Trong tương giao xã hội, thấy rõ được ưu điểm và nhược điểm của mình và của người khác là có chánh kiến. Có chánh kiến thì chánh tư duy sẽ sáng và chánh ngữ sẽ không gây ra những đau khổ. Điều đó cũng đúng với chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Kiếp trước gieo nhân gì mà kiếp này khổ?

Kiến thức 08:00 25/11/2025

Trong kinh Phật thường nói: “Nhân quả báo ứng như bóng theo hình, cho dù trải qua trăm kiếp ngàn đời, những điều đã tạo ra không hề mất”…Điều này khuyên răn chúng ta phải hết sức cẩn thận “các điều ác chớ làm, siêng làm các điều lành”.

Muốn tâm thanh tịnh thì hãy niệm Phật

Kiến thức 11:15 20/11/2025

Người đời phần nhiều không tin pháp môn niệm Phật, nói một câu niệm Phật thì tác dụng chỗ nào? Không biết một câu A Di Ðà Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, trị được hết thảy tâm bệnh phiền não.

12 lời nguyện của Phật Dược Sư

Kiến thức 12:29 19/11/2025

Phật Dược Sư vì chúng sanh hiện đời cầu an lạc, còn Phật A Di Đà lại tiếp bước chúng sanh vãng sanh về Cực Lạc. Tuy nhiên dù là vãng sanh Tây phương hay tu tập pháp môn gì, đều phải có thân tâm mạnh khỏe mới có thể thực hành tu trì Phật pháp.

Hạnh nguyện và năng lực gia trì của đức Phật Dược Sư

Kiến thức 10:50 19/11/2025

Hôm nay, nhân ngày kỷ niệm vía đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chúng tôi xin nói về mười hai hạnh nguyện của Ngài. Đức Phật Dược Sư còn có tên là Đại Y Vương Phật, Ngài là vị giáo chủ cõi Tịnh Lưu Ly ở phương Đông.

Xem thêm