Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 05/01/2023, 08:09 AM

Có thể Nguyễn Du là nhà sư Chí Hiên

Nguyễn Du có phải thật sự là nhà sư Chí Hiên - người hai lần gửi thư cho Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hay không? Cho đến nay vẫn là một câu hỏi rất cần các nhà nghiên cứu lịch sử, văn học làm rõ, để góp phần hoàn chỉnh bức tranh cuộc đời văn nghiệp, tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du.

Danh nhân văn hóa - Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820) tự Tố Như hiệu Thanh Hiên, pháp danh Chí Hiên là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam thời Lê - Nguyễn, cũng là nhà thơ lớn của thế giới.

Trong "Nguyễn Du - nhà sư Chí Hiên Giang Bắc, Giang Nam cái túi không" TS. Phạm Trọng Chánh cho rằng Nguyễn Du chính là nhà sư Chí Hiên từng từ ở chùa Hổ Pháo gần Tây Hồ trong giai đoạn bôn ba lưu lạc xứ người bên Trung Hoa: "...Nguyễn Du, mang danh hiệu Chí Hiên, danh hiệu Nguyễn Du dùng cho đến năm 1796, ký tên hai bài thơ tặng Hồ Xuân Hương, lưu lại trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du làm thế nào, không tiền mà đi giang hồ Giang Nam, Giang Bắc, đi Trường An, Hàng Châu. Đội mũ vàng (mũ nhà sư), đi muôn dậm, lại đọc kinh Kim Cương hàng nghìn lượt trong ba năm..."

Vấn đề Nguyễn Du có phải thật sự là nhà sư Chí Hiên - người hai lần gửi thư cho Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hay không? Cho đến nay vẫn là một câu hỏi rất cần các nhà nghiên cứu lịch sử, văn học làm rõ, để góp phần hoàn chỉnh bức tranh cuộc đời văn nghiệp, tư tưởng của Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du. 

Cư sĩ Phật tử - Đại thi hào Nguyễn Du

3

Một trong những cách góp phần xác định Nguyễn Du có phải là nhà sư Chí Hiên không là bắt đầu từ văn bản của những tác phẩm tiêu biểu viết về Phật giáo của ông như Truyện Kiều; Văn tế thập loại chúng sinh....

Ở đây chúng tôi tiếp cận vấn đề này từ tác phẩm Lương Chiêu Mình Thái tử phân kinh thạch đài trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du

Nguyên văn: 

梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺

阮攸

梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處

石 臺 猶 記 分 經 字

臺 基 蕪 沒 雨 花 中

百 草 驚 寒 盡 枯 死

不 見 遺 經 在 何 所

往 事 空 傳 梁 太 子

太 子 年 少 溺 菸 文

強 作 解 事 徒 紛 紛

佛 本 是 空 不 著 物

何 有 乎 經 安 用 分

靈 文 不 在 言 語 科

孰 為 金 剛 為 法 華

色 空 境 界 茫 不 悟

癡 心 歸 佛 佛 生 魔

一 門 父 子 多 膠 蔽

一 念 之 中 魔 自 至

山 陵 不 涌 蓮 花 臺

白 馬 朝 渡 長 江 水

楚 林 禍 木 池 殃 魚

經 卷 燒 灰 臺 亦 圯

空 留 無 益 萬 千 言

後 世 愚 僧 徒 聒 耳

吾 聞 世 尊 在 靈 山

說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數

人 了 此 心 人 自 渡

靈 山 只 在 汝 心 頭

明 鏡 亦 非 臺

菩 提 本 無 樹

我 讀 金 剛 千 遍 零

其 中 奧 旨 多 不 明

及 到 分 經 石 臺 下

終 知 無 字 是 眞 經 .

Dịch thơ: 

ĐÀI ĐÁ CHIA KINH CỦA THÁI TỬ LƯƠNG CHIÊU MINH

Triều Lương, Chiêu Minh thái tử, chốn phân kinh,

Đài đá còn ghi chữ Phân Kinh.

Hoang vu nền cũ trong mưa gió,

Lạnh tàn cây cỏ xác xơ cành

Chốn cũ nơi đây nào thấy kinh,

Còn nghe lưu truyền Lương thái tử.

Thái tử tuổi trẻ say văn chương,

Bày chuyện chia kinh vô tích sự

Đạo Phật vốn không, không nhờ vật,

Là gì Kim Cương và Pháp Hoa ?

Nào có kinh gì để phân chia,

Văn thiêng không ở nơi ngôn ngữ,

Sắc không mờ mịt không hiểu rõ,

Tâm mê theo Phật, Phật thành ma,

Một nhà cha con đều mù lòa

Ma tự sinh ra trong ý nghĩ.

Hoa sen nào thấy chốn sơn lăng.

Ngựa trắng một sớm qua Trường Giang,

Cây Sở cá ao đều bị họa,

Kinh sách ra tro đài tàn hoang,

Nghìn vạn lời lưu lại ích chắng ?

Điếc tai đời sau bọn ngu tăng.

Ta nghe Thế Tôn núi Linh Thứu,

Thuyết pháo độ nhiều sa số như cát sông Hằng,

Người hiểu được tâm ấy độ rồi,

Linh Sơn chỉở trong lòng người,

Bồ Đề chẳng phải cây,

Minh kính không là đài.

Ta đọc Kim Cương hàng nghìn lượt,

Lắm điều sâu kín khó hiểu rành.

Phân kinh thạch đài nay đến đó,

Mới hay không chữ là chân kinh.

(Nhất Uyên dịch)

Chúng tôi cho rằng, không loại trừ khả năng nhà sư Chí Hiên, người hai lần gửi thư cho Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chính là Đại thi hào Nguyễn Du.

Có ba lý do khiến chúng tôi nghĩ như vậy

Một là Nguyễn Du viết tác phẩm này với tâm thế của một nhà sư - người của Phật giáo

Hai là có lẽ từ xưa đến giờ chưa có ai không phải là nhà sư - người xuất gia tu hành mà đọc kinh Kim Cương hàng vạn biến (lần). Chỉ có người xuất gia tu hành trì tụng kinh hàng ngày ở chùa mới có thể đọc tụng kinh Kim Cương đến hàng vạn lần. Các chùa tu theo pháp Đại thừa ở Trung Hoa, cũng như ở Việt Nam rất kính ngưỡng và thường trì tụng kinh Kim Cương vào lúc 4 giờ khuya hàng ngày

Liên quan đến vấn đề này,TS Phạm Trọng Chánh cho rằng, khi đi lưu lạc, Nguyễn Du mang theo cuốn Kim Cương chú giải của nhà bác học Lê Quý Đôn - một thần tượng của giới tri thức bấy giờ nói chung, Nguyễn Du nói riêng.

Ba là nếu không phải là nhà sư, thường cộng phu học Phật tu hành, thâm nhập triết lý duyên khởi tánh không thì không thể viết nổi câu cuối cùng của bài thơ

"Tài tri vô tự thị chân kinh"

(Mới ngộ ra kinh không chữ mới là chân kinh)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo

Nghiên cứu 09:45 19/10/2024

Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.

Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội

Nghiên cứu 09:30 06/10/2024

Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.

Vài suy nghĩ về quyền động vật trong kinh, luật Phật giáo

Nghiên cứu 19:05 21/09/2024

Cảnh giới trí tuệ của chư Phật đã thấy và biết như thật rằng “tất cả mọi loài chúng sanh đều có tính Phật”, do đó, họ cần phải được tôn trọng, bảo tồn và thương yêu bình đẳng. Nói cách khác, từ tuệ giác của Đức Phật, Ngài đã thừa nhận “quyền động vật” nói riêng và muôn loài chúng sanh nói chung.

Xem thêm