Kinh đại thừa công đức tạo tượng Phật ( Phần 2)

Người nào xét nghĩ rồi sinh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.

 Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Di Lặc ! Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ vì ông mà nói.

Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào đức tin trong sạch, chuyên tâm buộc niệm về công đức của Phật, thường xét Như Lai oai đức tự tại, đầy đủ. Mười lực, bốn Vô Sở Úy, mười tám Pháp Bất Cộng, Đại từ, Đại bi, Nhất Thiết Chủng Trí, ba mươi hai tướng của Đại trượng phu, tám mươi tướng phụ. Mỗi lỗ chân lông đều có vô lượng ánh sáng khác màu, trăm ngàn ức thứ phước đức siêu thắng trang nghiêm tạo thành, vô lượng trí tuệ sáng tỏ thông suốt, vô lượng Tam muội, vô lượng thần thông… Tất cả các thứ công đức như vậy không có hạn lượng, lìa các lỗi lầm, không ai sánh bằng.

Người nào xét nghĩ rồi sinh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.

Di Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi thêu thùa hình Phật, hoặc là nấu đúc bằng các thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm… Hoặc điêu khắc bằng gỗ thơm Chiên đàn, hoặc khắc bằng các thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, bằng đất đỏ, thạch cao, đất sét, hoặc các thứ gỗ.v.v… (Chú thích: thời nay công nghệ phát triển, chúng ta có thêm nhiều cách thức tinh vi để vẽ, tạc, tạo hình, tạo tượng Phật như Photoshop, in 3D…công đức đều đồng như trên). Dùng những vật đó tùy phần sức mình tạo ra hình – tượng Phật, cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết đó là Tôn tượng, phước báo người này ta sẽ nói:

Di Lặc! Những người như vậy ở trong sinh tử tuy còn trôi lăn, trọn chẳng sinh tại gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sinh nhà dòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh ở biên địa. Lại cũng chẳng sinh vào nhà tà kiến, con buôn, nhà làm hàng thịt, cho đến chẳng sinh vào dòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại đạo, khổ hạnh tà kiến… trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sinh vào những nhà ấy.

Người này thường sinh nhà thuộc dòng tộc vua Chuyển Luân Vương có thế lực lớn. Hoặc sinh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng. Sinh ở nơi nào cũng thường gặp Phật, vâng thờ cúng dường. Hoặc được làm vua hộ trì chánh pháp, đem pháp giáo hóa, chẳng làm trái đạo. Hoặc làm vua Chuyển Luân Thánh Vương oai hùng, đủ bảy báu vật, đủ ngàn người con, bay đi trên không giáo hóa bốn châu, suốt một cuộc đời tự tại giàu sang, vui sướng.

Hoặc làm vua Trời Đao Lợi, vua Trời Dạ Ma, vua trời Đâu Suất, vua trời Hóa Lạc, vua trời Tha Hóa Tự Tại… lạc thú Trời người, không gì chẳng hưởng, phước báo như thế nối tiếp không dứt. Sinh ra nơi đâu cũng là đàn ông, không chịu thân nữ, lại cũng chẳng chịu thân đồng tính, song tính luyến ái hèn hạ (Chú thích: song tính luyến ái là bị hấp dẫn về mặt cảm xúc, tình cảm và tình dục với cả người cùng giới tính và khác giới tính với mình).

Thân được thọ sinh không bị xấu xí, mắt chẳng mù chột, tai chẳng điếc, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo lệch, môi chẳng trề xuống, cũng chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu, chẳng đen, chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da chẳng loang lỗ, tay chẳng cụt ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o, chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá dài, cũng chẳng quá ngắn… Đều không có các tướng chẳng đáng ưa.

Người nào xét nghĩ rồi sinh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.

Người nào xét nghĩ rồi sinh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.

Thân của người ấy ngay ngắn, đoan trang, mặt mày đầy đặn. Tóc biếc mềm mại, sáng sạch. Môi đỏ như son, mắt như sen xanh, tướng lưỡi rộng dài. Răng trắng, bằng khít, nói ra lời hay ý khéo, khiến người nghe ai cũng vui lòng đẹp dạ. Khuỷu tay vừa chừng. Bàn tay bằng phẳng, lưng vế đầy đặn, vai ngực nở nang, tay chân dịu dàng dường như bông vải, các tướng đầy đủ không bị khuyết thiếu, gân sức mạnh mẽ, tựa hồ như trời Na La Diên ( Chú thích : đại lực sĩ cõi trời)

Di Lặc! Ví như có người rớt vào hầm cầu tiêu, từ đó thoát được ra, cạo bỏ phẩn uế, lấy nước rửa sạch, dùng hương thoa thân, mặc áo mới sạch… Người như thế đó so với người còn ở trong hầm cầu tiêu, chưa được ra khỏi, vậy sự nhơ bẩn và sự thơm tho, hỏi cách nhau bao nhiêu?

– Kính bạch Thế Tôn! Hai việc ấy cách xa không biết bao nhiêu lần!

– Di Lặc! Nếu có người nào còn trong sinh tử, phát lòng tin tạo hình – tượng Phật, so sánh với lúc người ấy chưa tạo, thì sự cách xa lại cũng như vậy. Nên biết người ấy đời đời sinh ra trừ sạch nghiệp chướng, các thứ kỹ thuật, không thấy mà hiểu. Tuy sinh làm người mà các giác quan được coi như cõi trời. Nếu sinh lên trời, thì vượt trội hơn rất nhiều Thiên chúng. Sinh ra nơi nào cũng không tật nguyền, không bị phong hủi, không bị ung thư, không bị dựa nhập bởi các quỷ mị. Không mắc những bệnh điên cuồng khô héo, vàng da sốt rét, sạn hòn, ghẻ dữ, thẹo sâu, thổ tả vô độ, ăn uống không tiêu, cựa mình nhức nhối, tê liệt nửa người…Những chứng bệnh như vậy, cả đến bốn trăm lẻ bốn chứng thảy đều không có.

Lại cũng chẳng bị các thứ thuốc độc, binh khí, gậy gộc, cọp, sói, sư tử, nước, lửa, trộm, cướp… những nghịch duyên xảy ra bất ngờ như vậy không làm tổn hại. Thường được không sợ hãi, chẳng phạm các tội.

Di Lặc! Nếu có chúng sinh trước tạo nghiệp ác, phải chịu đủ thứ các sự khổ não, như bị kìm kẹp, còng khóa, gông xiềng, đánh mắng, thiêu đốt, châm chích, xẻ da, nhổ tóc, treo ngược lên cao, cho đến hoặc bị mổ xẻ lòng ruột… Nếu phát lòng tin tạo hình – tượng Phật, thì khổ báo ấy thảy đều chẳng thọ. Chẳng sinh những chỗ giặc giã quấy nhiễu, thành trì sụp đổ, sao dữ biến quái, đói kém ôn dịch… Những chỗ như thế đều chẳng sinh đến, nếu nói có sinh, đó là vọng ngữ.

Lúc ấy, Ngài Đại Bồ Tát Di Lặc bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói “Nghiệp lành, nghiệp dữ đều chẳng mất mát” Nếu có chúng sinh gây tạo nghiệp nặng, phải sinh vào nhà giòng họ hèn mọn, nghèo nàn tật nguyền, mạng sống ngắn ngủi. Sau phát lòng tin tạo hình – tượng Phật, các tội báo này là còn phải chịu hay là chẳng chịu?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Ông nay nghe kỹ, Ta sẽ vì ông nói. Nếu chúng sinh nào gây các tội rồi, phát tâm tạo tượng cầu xin sám hối, quyết định dứt trừ, thề không phạm lại, thì tội đã tạo đều được tiêu diệt. Nay ta vì ông nêu rộng việc này.

Di Lặc! Ví như có người đời trước bỏn sẻn, do duyên cớ đó chịu khổ nghèo nàn, không có của cải, thiếu thốn vật dùng, bỗng gặp Tỳ kheo trước đó nhập định, từ trong định vừa xuất ra, người kia liền đem món ăn thức uống dâng lên cúng dường, người ấy cúng rồi, sẽ khỏi khổ nghèo nàn, phàm có cầu gì, đều như ý muốn. Di Lặc! Nghiệp ác đời trước và chỗ mắc báo của người nghèo kia nay có còn chăng?

Ngài Di Lặc thưa:

– Kính bạch Thế Tôn! Nhờ cúng thức ăn mà nghiệp ác cũ thảy đều diệt hết, lìa hẳn nghèo nàn và được giàu có, của cải sung túc.

Đức Phật dạy rằng:

– Bồ Tát Di Lặc! Đúng như ông nói, nên biết, người kia lại cũng như vậy. Nhờ tạo tượng nên những nghiệp ác cũ hết hẳn không còn, chỗ đáng chịu quả báo đều chẳng chịu nữa.

Di Lặc! Nghiệp có ba thứ. Một là, hiện đời chịu báo. Hai là, đời sau chịu báo. Ba là, nhiều đời về sau mới chịu quả báo… Trong ba loại nghiệp như vừa nêu trên, mỗi loại nghiệp đều có Định và Bất định. Người có lòng tin tạo hình – tượngPhật, chỉ có định nghiệp trong hiện đời còn phải chịu lãnh ít phần, ngoài ra chẳng chịu những thứ nghiệp khác.

Khi ấy, Bồ Tát Di Lặc bạch rằng:

– Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói: Có năm thứ nghiệp rất là sâu nặng, quyết định đọa tại địa ngục Vô gián (Chú thích: là hạng địa ngục khủng khiếp nhất, cực hình không gián đoạn). Đó là các tội: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, ác tâm làm cho thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Nếu có chúng sinh trước tạo tội này, sau sinh lòng tin đối với Đức Phật và tạo hình – tượng Phật, người này có còn đọa địa ngục hay chẳng bị đọa?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Nay ta vì ông nói một thí dụ nữa: Giả như có người, tay cầm cung mạnh ở giữa rừng cây, nhằm lên phía trên bắn những lá cây, mũi tên đi suốt không bị trở ngại. Nếu có chúng sinh gây tội nghịch kia, sau tạo tượng Phật, thành tâm sám hối, dù được đức tin chưa chắc chắn lắm, người ấy tội được nhẹ đi, thì dù có đọa địa ngục chăng nữa cũng liền ra khỏi, như mũi tên bắn đi suốt không ngừng, trường hợp người này lại cũng như vậy…

Công đức thù thắng của các Đức Phật, tất cả Thanh Văn, tất cả Duyên Giác còn chẳng thể biết danh từ để gọi. Thế nên người nào đức tin trong sạch tạo hình – tượng Phật, tất cả nghiệp chướng thứ nào cũng diệt, được những công đức vô lượng vô biên, cho đến sẽ thành Vô Thượng Bồ Đề, nhổ hẳn khổ não cho khắp chúng sinh.

Công đức thù thắng của các Đức Phật, tất cả Thanh Văn, tất cả Duyên Giác còn chẳng thể biết danh từ để gọi. Thế nên người nào đức tin trong sạch tạo hình – tượng Phật, tất cả nghiệp chướng thứ nào cũng diệt, được những công đức vô lượng vô biên, cho đến sẽ thành Vô Thượng Bồ Đề, nhổ hẳn khổ não cho khắp chúng sinh.

Lại như Tỳ kheo, chứng Thần túc thông, từ bờ bên này qua bên kia, biển quanh cả bốn châu không gì ngăn ngại. Người kia cũng thế, do tội đã phạm, trước tạm đọa địa ngục, sau được thoát, nghiệp trước chẳng có thể làm trở ngại.

Bồ Tát Di Lặc lại bạch hỏi tiếp:

– Kính bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai là thân Pháp tánh, chẳng phải là thân thuộc về sắc tướng. Nếu lấy sắc tướng làm thân Đức Phật, thì Tỳ kheo Nan Đà và Chuyển Luân Vương lẽ ra là Phật, bởi vì họ đều có đủ các tướng tốt. Như có chúng sinh phá hoại Pháp thân Phật, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, sau phát lòng tin và tạo tượng Phật, thì tội nặng này là cùng tiêu diệt, hay chẳng được diệt?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Nếu chúng sinh nào pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, chỉ dùng miệng nói mà không phá kiến, sau sinh tin ưa tạo hình – tượng Phật, thì nghiệp ác trước, chỉ nơi hiện thân bị chịu báo nhẹ, chẳng đọa đường ác, song với sống chết chưa giải thoát liền.

Bồ Tát Di Lặc lại thưa hỏi tiếp:

– Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người nào, trộm lấy những vật trong bảo tháp Phật, trộm vật của Thường Trụ, trộm vật bốn phương Tăng, vật hiện tiền Tăng, tự mình tiêu dùng, đem cho người dùng, coi như của mình. Thế Tôn thường nói: “Dùng vật lấy trộm từ trong tháp Phật hay vật của Tăng, tội ấy rất nặng.” Vậy chúng sinh nào tạo tội ấy rồi rất tự hối trách, khởi lòng tịnh tín và tạo tượng Phật, các hạng người đó tội được diệt chăng?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Nếu chúng sinh nào từng dùng vật ấy, sau tự tỉnh xét ôm lòng thẹn hối, y số bồi thường, thề chẳng phạm nữa, nay ta vì ông nói một ví dụ: Như có người nghèo trước mắc nhiều nợ, bỗng gặp của chìm vô số vàng ngọc, trả hết nợ xong vẫn còn dư lớn. Người tạo tội kia lại cũng như thế, đền vật nọ rồi, lại tạo tượng Phật, sẽ khỏi nạn khổ, mãi được an vui.

Bấy giờ Ngài đại Bồ Tát Di Lặc lại bạch hỏi Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Như Phật từng dạy “Ở trong pháp Phật mà phạm khí tội, chẳng gọi là sống.” (Chú thích: Khí tội là các loại tội của người xuất gia, Tăng có 4 loại, Ni có 8 loại) Nếu lại có người phạm tội đó rồi, phát tâm nhớ nghĩ công đức chư Phật và tạo hình – tượng, vậy thì đối trong giáo pháp của Phật được “sống” lại chăng? Lại trong đời này, hoặc đời thứ hai, thứ ba, thứ tư được chứng Pháp chăng?

Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Di Lặc:

– Ví như có người thân bị trói cột, tay, chân và cổ, nếu được cởi trói thì sẽ như chim khỏi lưới, bay đi tự do, việc này thế nào thì người kia cũng vậy. Nếu phát lòng tin, ngẫm nghĩ về những công đức của Phật và tạo hình – tượng Phật, thì các nghiệp chướng đều được tiêu trừ, ở trong sinh tử mau được ra khỏi, không bị trở ngại. Di Lặc nên biết, có ba Thừa pháp làThanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật Đại thừa, người tạo hình – tượng Phật tùy nơi thừa nào, khởi nguyện ưa muốn, tức sẽ nơi thừa đó, được sự giải thoát. Nếu như chỉ vì cầu thành Phật đạo, không cầu báo khác, thì dầu chướng nặng vẫn được mau diệt, tuy tại sinh tử nhưng không nạn khổ, cho đến sẽ chứng Vô Thượng Bồ Đề, được cõi thanh tịnh; đủ các tướng tốt, được cảm thọ mạng lâu dài vô tận.

Bấy giờ trong hội, có những người chưa phát tâm Đại thừa, đều sinh mối nghi, nghĩ như thế này: “Đức Như Lai ta về thuở quá khứ có tạo tượng Phật hay là không tạo? Giá mà có tạo, sao cõi Ngài ở đầy những nhơ nhớp, chẳng được thanh tịnh?”

Vua Ba Tự Nặc nương oai thần Phật, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy chấp tay quỳ thẳng bạch Phật:

– Kính bạch Đức Thế Tôn! Con thấy Đức Như Lai các căn tướng tốt đẹp cũng như dòng tộc đều là đệ nhất, lòng con quyết định không có chỗ nghi. Nhưng Đức Như Lai từng có một lần, cây Khư đà la đâm thủng chân Ngài. Lại có một lần Đề Bà Đạt Đa lăn đá văng mảnh, khiến chân Phật chảy máu. Trước đây có lúc Ngài bảo có bệnh, cho mời Kỳ Bà điều chế thuốc tốt. Lại có một lần từng nhức sau lưng. Ngài bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp tụng “bảy pháp Giác phần” thì chỗ đau được trừ. Lại có một lần từng bị đau nhức, sai Ngài A Nan đến nhà Bà La Môn tìm xin sữa bò. Trước đây có lần tại thôn Ta La, ba tháng an cư chỉ ăn lúa của ngựa. Lại từng một lần khất thực chẳng được, bát không trở về.

Kính bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói: “Nếu có người nào tạo hình – tượng Phật, thì bao nghiệp chướng đều bị trừ diệt, lìa những khổ não, không các tật bệnh”. Vậy Đức Thế Tôn trong những kiếp xưa từng có tạo tượng hay là không tạo. Nếu trong quá khứ Ngài có tạo tượng, thì nhân duyên nào, có những việc ấy?

Đức Phật bảo vua Ba Tư Nặc rằng:

– Lắng nghe! Lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, Ta sẽ vì Đại vương phân biệt giải nói.

Này Đại vương, Ta về kiếp xưa vì cầu Bồ đề mà đã dùng những châu ngọc quý giá, gỗ thơm Chiên đàn và sơn vẽ để tạo hình -tượng Phật, nhiều hơn tất cả số chúng Trời người trong hội hiện nay. Do phước này nên dầu còn trong vòng lưu chuyển sinh tử mê hoặc, nhưng được thọ thân bền như kim cương, chẳng thể hư tổn.

Lại này Đại vương! Ta nhớ quá khứ cách vô lượng kiếp, còn trong sinh tử ta tạo tượng Phật, lúc đó ta còn tham lam, sân hận, si mê… vô lượng phiền não tương ưng với tâm, nhưng ta chưa từng trong khoảng một niệm, vì tội nghiệp mà bốn đại chẳng điều, hoặc là bị các quỷ thần dựa nhập, hay bị chút ít các chứng bệnh khổ, còn vật cần dùng thì không thứ nào mà chẳng đầy đủ, huống gì ngày nay ta đã chứng đạo Bồ đề, lại còn có việc “bất như ý” sao?

Đại vương! Nếu ta thuở xưa từng tạo tượng Phật, nay có nghiệp tàn để chịu báo đó, ta làm sao thành bậc “Vô úy thuyết” để rồi nói rằng “Tạo tượng quyết định có thể trừ hết các nghiệp xấu ác?”

Đại vương! Ta thuở quá khứ cấp giúp vô lượng món ăn thức uống, tiền tài châu báu, làm sao đời nay khất thực chẳng được, phải ăn lúa của ngựa? Thoảng như ngày nay, việc đó có thật, thì ta làm sao trong vô lượng kinh, nhiều cách khen ngợi thí Ba la mật, nói phước bố thí trọn không hư dối?

Đại vương! Ta là bậc nói lời chân thật, bậc không nói lời dối gạt. Nếu ta khi dối thì độ được ai?

Đại vương! Từ lâu ta đã dứt hết nghiệp ác, bỏ việc khó bỏ, làm sự khó làm, thân mạng được bỏ hàng trăm ngàn ức, đã tạo vô lượng hình – tượng chư Phật, hối cải vô lượng các tội nghiệp ác, há mắc những việc bị thương, bệnh khổ, ăn dùng lúa của ngựa, đói khát hay sao? Nếu từng được những quả báo thù thắng, nay lại lui mất, lấy đâu khuyến tu các phước lành kia?

Người tạo hình tượng Phật được phúc báo vô lượng, dù trải thời gian vô cùng vô tận cũng không thể tính đếm, nước trong biển cả và sông ngòi ở khắp bốn châu thiên hạ cũng có thể đong lường, nhưng phúc đức tạo tượng Phật thì không thể.

Người tạo hình tượng Phật được phúc báo vô lượng, dù trải thời gian vô cùng vô tận cũng không thể tính đếm, nước trong biển cả và sông ngòi ở khắp bốn châu thiên hạ cũng có thể đong lường, nhưng phúc đức tạo tượng Phật thì không thể.

Này Đại vương! Chư Phật Như Lai là thân thường hằng, là thân Pháp tánh, vì độ chúng sinh mà thị hiện việc trên, chẳng phải thật sự như vậy. Bị thương bàn chân, đau lưng, xin sữa, uống thuốc v.v… cho đến nhập Đại Niết bàn, để lại xá lợi, phân chia các nơi, xây tháp v.v… Đều là phương tiện khéo léo của Phật, khiến các chúng sinh trông thấy tướng như vậy.

Đại vương! Ta ở thế gian hiện ra những việc bệnh hoạn như trên, mục đích muốn cho chúng sinh biết rõ nghiệp báo chẳng mất, khiến họ biết sợ để dứt tội lỗi, tu các hạnh lành, để rồi sau đó, biết thân thường hằng, biết thân Pháp tánh, thọ mạng vô hạn, cõi nước thanh tịnh.

Đại vương! Chư Phật Như Lai không hề hư vọng, thuần là đại bi, trí tuệ khéo léo, cho nên có thể thị hiện đủ mọi cách thức như vậy.

Khi đó vua Ba Tư Nặc nghe lời này rồi, mừng vui khấp khởi, cùng với vô lượng trăm ngàn chúng sinh, đều phát đạo tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Bấy giờ, Ngài đại Bồ Tát Di Lặc tiếp tục hỏi Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Có những người nữ ý chí nhỏ hẹp, mang nhiều ghen, giận, khinh bạc, xiểm dối, giận dai không bỏ, mang ơn chẳng báo đáp. Dẫu cầu Bồ đề, nhưng không mấy người giữ chí bền bỉ, thường muốn mê hoặc tất cả mọi người, lại cũng bị người lừa gạt trở lại.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu người nữ này tạo hình – tượng Phật, những nghiệp như vậy được trừ diệt chăng? Được làm một người biết ơn, báo ơn chăng? Được đủ trí tuệ, đại từ bi chăng? Với sự sống chết hay chán lìa chăng? Trừ khi phát nguyện, ngoài ra có chịu thân nữ lại chăng? Có được như bà Cù Đàm Di và Phật mẫu là bà Ma Gia phu nhân chăng?

Đức Phật đáp lời Bồ Tát Di Lặc:

– Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhất hơn hết. So với những người nữ có năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả những người nữ đó. Năm đức là gì?

Một là: Sinh nở con cái.

Hai là: Giòng dõi tôn quý.

Ba là: Bẩm tánh trinh lương.

Bốn là: Thể chất, tướng mạo đẹp đẽ cả hai.

Năm là: Dáng vẻ mỹ mãn.

Di Lặc! Tất cả người nữ có tám nhân duyên cho nên thường chịu thân nữ nhiều đời. Thế nào là tám?

Một là: Yêu dấu thân nữ.

Hai là: Ham đắm dục lạc của người phụ nữ.

Ba là: Miệng thường khen ngợi dung chất nữ nhân.

Bốn là: Lòng không ngay thẳng, che dấu việc làm sai trái.

Năm là: Chán nản chồng mình.

Sáu là: Cõi lòng nặng trĩu tơ tưởng đến người khác.

Bảy là: Biết người có ơn nhưng mình lại bội nghịch.

Tám là: Trang điểm, phục sức tà ngụy muốn người khác sinh mê hoặc, ái luyến.

Nếu hay dứt hẳn tám điều như thế, tạo hình – tượng Phật, mãi đến khi thành Phật, thường làm nam giới. Chịu thân nữ nữa là điều vô lý.

Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân nữ nhân. Thế nào là bốn?

Một là: Giả tiếng người nữ khinh cười gọi Phật, chư vị Bồ Tát, các vị Thánh nhân.

Hai là: Với người giữ giới, đem lòng chê bai, nói rằng họ phạm giới.

Ba là: Ưa đi nịnh hót, dối gạt người khác.

Bốn là: Thấy ai hơn mình tâm sinh ganh ghét.

Nếu đàn ông nào làm bốn việc trên, sau khi chết rồi ắt chịu thân nữ, lại phải trải qua vô lượng nỗi khổ trong các ác đạo. Nếu phát lòng tin sâu dày sám hối việc làm lúc trước và tạo tượng Phật, các tội như trên đều bị tiêu diệt, rốt ráo chẳng còn chịu thân người nữ.

Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân đồng tính. Những gì là bốn?

Một là: Tàn hại thân hình người và súc sinh.

Hai là: Đối với Sa môn gìn giữ tịnh giới mà nổi sân hận, chế giễu, chê bai.

Ba là: Đa tình, tham dục, cố tâm phạm giới.

Bốn là: Gần người phạm giới, lại khuyên người phạm giới.

Nếu người nam nào trước làm điều này, sau khởi lòng tin tạo hình – tượng Phật, mãi đến thành Phật chẳng chịu báo đó, thường làm đàn ông các căn đầy đủ.

Di Lặc! Có bốn thứ nghiệp hay khiến đàn ông chịu thân song tính luyến ái, thấp hèn nhất trong tất cả mọi người. Những gì là bốn?

Một là: Loạn dâm nhơ nhớp ở chốn tôn nghiêm.

Hai là: Với thân người nam mà đắm nhiễm bậy.

Ba là: Chính tự mình nơi thân mình làm việc dâm dục.

Bốn là: Mua bán nữ sắc cho những người khác.

Nếu chúng sinh nào làm các việc ấy, rất tự trách lỗi, hối hận chỗ phạm trước, khởi lòng tịnh tín tạo tượng Phật, mãi đến khi thành Phật, chẳng chịu thân ấy.

Di Lặc! Lại có bốn duyên khiến những người nam, tâm họ thường sinh tâm ái dục của nữ, thích với đàn ông làm chuyện dâm ái. Thế nào là bốn?

Một là: Hoặc ngờ, hoặc giỡn báng bổ người khác.

Hai là: Ưa lối phục sức trang điểm của nữ.

Ba là: Làm chuyện dâm dục, nhơ nhớp với người nữ trong họ hàng.

Bốn là: Thật không có đức tốt, lại vọng nhận để người khác lễ lạy.

Do nhân duyên này khiến những đàn ông khởi những phiền não khác biệt như thế. Nếu như ăn năn những lỗi đã phạm, chẳng tạo lỗi mới, tâm sinh tin ưa tạo hình – tượng Phật, tội kia đã diệt, tâm nọ cũng dứt.

Di Lặc! Có năm thứ bỏn xẻn hay phá chúng sinh. Thế nào là năm?

Một là: Bỏn xẻn tiếc thôn ấp, chỗ ở gần gũi mình (Chú thích: Nghĩa là chỉ muốn riêng ta ở chỗ này, không dung chứa người khác). Do đây mà sinh ở chỗ đồng không mông quạnh.

Hai là: Bỏn xẻn tiếc nhà cửa, hiên mái để ở (Chú thích: Nghĩa là chỉ ta vào ra nhà này, không cho người khác ra vào), sẽ làm sâu cổ, thường ở những chỗ phân tiểu hôi nhơ.

Ba là: Bỏn xẻn tiếc sắc đẹp, dung mạo (Chú thích: Nghĩa là chỉ muốn một mình ta hưởng sự đẹp đẽ, không muốn người khác hưởng), sẽ cảm hình xấu chẳng như ý muốn.

Bốn là: Bỏn xẻn tiếc của cải (Chú thích: Nghĩa là chỉ muốn ta có của cải, không muốn người khác có), sẽ bị nghèo nàn, áo cơm thiếu hụt.

Năm là: Xẻn tiếc giáo pháp đã biết (Chú thích: Nghĩa là chỉ riêng ta hay biết nghĩa lý sâu xa ấy, không cho người khác hay biết), sẽ mắc những quả báo súc sinh, đần độn.

Nếu như ăn năn nghiệp trước của mình và tạo

tượng Phật, thì sẽ lìa tâm bỏn xẻn trước đó, không thọ những quả báo như đã nói trên.

Di Lặc! Lại có năm duyên làm cho chúng sinh, sinh ở vùng man di, ở chốn biên cương, hoặc sinh thời kỳ không có Phật Pháp. Thế nào là năm?

Một là: Chẳng sinh lòng tin trong sạch đối với ruộng phước Tam Bảo.

Hai là: Trái với lẽ thật, lệch với chánh lý, mà vọng đi giáo giới ( Chú thích: dạy giới luật, đây là phận sự của người xuất gia)

Ba là: Chẳng đúng giáo lý chân thật mà lại dạy trao cho người.

Bốn là: Phá hòa hợp Tăng khiến chia rẽ thành hai bộ.

Năm là: Cho đến ít nhất phá hai Tỳ kheo khiến chẳng hòa hợp.

Dứt hẳn nghiệp trên và tạo tượng Phật, sẽ thường gặp Phật, thường nghe pháp yếu.

Di Lặc! Chúng sinh lại có năm thứ nhân duyên thường bị nhiều người chán ghét xua đuổi, cả đến người thân cũng không ưa gặp. Thế nào là năm?

Một là: Nói lời hai lưỡi (Chú thích :tức là đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này)

Hai là: Nói lời hung ác.

Ba là: Nhiều sự tranh chấp.

Bốn là: Nhiều sự giận dỗi.

Năm là: Giỏi nói bóng bẩy nhằm chê bai người.

Sau nếu phát tâm tạo hình – tượng Phật, ăn năn nghiệp cũ thề không tái phạm, tội của người ấy đều được trừ diệt, được cả mọi người mến kính gần gũi. Tại sao vậy? Vì chư Phật có vô lượng vô biên phước đức thù thắng, vô lượng vô biên trí tuệ rộng lớn, vô lượng vô biên Tam muội giải thoát, đủ những pháp tánh công đức hiếm có.

Chư thiện nam tử! Giả sử có người đem một tam thiên đại thiên thế giới (Chú thích : tương đương 1 tỉ hệ mặt trời) nghiền thành bụi nhỏ, lại lấy số bụi ấy, mỗi mỗi hạt bụi lại nghiền ra nhiều hạt cực nhỏ, số lượng bằng với số bụi trong một đại thiên thế giới; tổng những số hạt bụi được nghiền ấy nhiều biết chừng nào.

Giả như có người lấy số hạt bụi nghiền ấy, dùng sức thần thông đi về phía Đông. Người ấy đi mãi lâu đến số kiếp nhiều như số bụi đã nghiền. Trong mỗi sát na, người ấy vượt qua số thế giới nhiều như số bụi của một cõi đại thiên đã được nghiền nhỏ. Qua hết tổng số thế giới ấy, bèn bỏ xuống một hạt bụi.

Người ấy lại tiếp tục đi về phía Đông hơn số cõi đó, bỏ xuống hạt bụi thứ hai.

Đến hạt thứ ba lại hơn lần trước, lần lượt như thế, cứ gấp bội lên, cho đến khi bỏ xuống hết sạch số bụi đã nghiền.

Phương Đông như thế, phương Nam, Tây, Bắc lại cũng như vậy. Những chỗ bốn phương người nọ đã đi qua, đem tất cả thế giới trong đó nghiền thành bụi hết.

Những hạt bụi này tất cả chúng sinh cùng nhau tính lường còn có thể biết, còn những công đức trong từng sợi lông nơi thân Như Lai, chẳng thể biết được. Tại sao vậy?

Những công đức mà chư Phật đã có, đều vô hạn lượng chẳng thể nghĩ bàn.

Các thiện nam tử! Giả sử số người nhiều như bụi nhỏ vừa được nêu trên trí tuệ bằng với Xá Lợi Phất, bao nhiêu trí tuệ của những người đó, chẳng bằng một niệm trí của Như Lai. Vì sao thế?

Bởi vì Như Lai trong mỗi mỗi niệm, thường hay xuất hiện chánh định giải thoát, tổng trì v.v…nhiều hơn số bụi được ví dụ trên, thứ nào cũng có vô lượng công đức thù thắng vậy.

Công đức thù thắng của các Đức Phật, tất cả Thanh Văn, tất cả Duyên Giác còn chẳng thể biết danh từ để gọi. Thế nên người nào đức tin trong sạch tạo hình – tượng Phật, tất cả nghiệp chướng thứ nào cũng diệt, được những công đức vô lượng vô biên, cho đến sẽ thành Vô Thượng Bồ Đề, nhổ hẳn khổ não cho khắp chúng sinh.

Đức Phật nói kinh này rồi, Bồ Tát Di Lặc và Thiên Đế Thích, vua Ưu Đà Diên và cả thế gian Trời, Người, Tu La, thần Càn Thát Bà… được nghe Phật dạy, tất cả mừng rỡ, tin nhận phụng hành.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Kinh phân biệt cúng dường (tiếng Việt, dễ đọc dễ hiểu)

Kinh Phật 19:30 18/12/2024

Kinh Phân biệt cúng dường (tiếng Việt, dễ đọc dễ hiểu), Phật nói Kinh Phân biệt cúng dường. Trích từ “Kinh Điển Tam Tạng - Tạng Kinh - Kinh Trung Bộ III", Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.

Kinh Diệu pháp Liên Hoa tóm lược – Thí dụ ngôi nhà cháy (P.2)

Kinh Phật 10:20 15/12/2024

Kinh Diệu pháp Liên hoa sử dụng hình ảnh các loại xe đại diện cho các phương pháp tu, mỗi người có một pháp môn ưa thích riêng, người hành theo bố thí Bồ tát đạo, người quán 12 nhân duyên, người ẩn cư, người tu pháp Bắc truyền…

Kinh A Di Đà bằng tranh

Kinh Phật 08:22 15/12/2024

Trong Phật giáo thì Kinh A Di Đà chính là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của các Phật tử ở các nước Châu Á, đặc biệt là ở Việt Nam.

Kinh Diệu pháp Liên Hoa tóm lược (P.1)

Kinh Phật 17:19 14/12/2024

Kinh Diệu pháp Liên Hoa thuộc kiểu kép giữa pháp và ví dụ. “Diệu” là diệu kỳ, diệu pháp muốn nói tới sự màu nhiệm của pháp, ở đây là so sánh với hoa sen (Liên hoa). Hoa sen được ví dụ cho "pháp", tuy mọc ở nơi bùn bẩn nhưng lại không nhiễm bẩn.

Xem thêm