Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 11/07/2013, 11:39 AM

Lược soạn một số nội dung khai thị của Thiền sư Thích Duy Lực giai đoạn 1995 - 1999

Chữ Phật nghĩa là giác ngộ, nếu tu đến giác ngộ thì biết không có sinh tử, tức liễu thoát sinh tử. Tại có sinh tử mới có xá lợi của xương, sinh tử đã không thì những cái kia cũng là thừa

           
Hỏi: Có nhiều người lúc trước ở Việt Nam thì sự tu cũng khá cao, qua đến đây do đời sống vật chất khiến họ bị lui  sụt, vậy có phải do nghiệp không?

Đáp: Ấy là bị hoàn cảnh lôi kéo, cũng như đứa bé sơ sinh chỉ có tập khí kiếp trước, chưa bị nhiễm tập khí kiếp này, rồi dần dần lớn lên mới nhiễm phải.

Như nội dung nhiều trò chơi điện tử thời nay, tập cho đứa bé có tánh hung dữ, sau này họ trưởng thành, khi có quyền hành trong tay rồi, chẳng biết thế giới sẽ ra sao. Xã hội ngày nay, nhiều hung thủ giết người chỉ có mười mấy tuổi, lái xe thì vô kỷ luật, những người sản xuất đồ chơi chỉ cần thu được phần lợi lộc, không màng đến hậu quả ảnh hưởng đem lại tánh hung dữ cho các cháu.

Còn những nhà đầu tư thì đem chất phế thải, ô nhiễm độc hại, đầu tư tại các nước cần phát triển, chỉ biết đem phần lợi về mình là đủ, ô nhiễm môi trường cũng mặc kệ, chỉ cần không gây ô nhiễm trong nước sở tại của mình là được. Họ lấy danh nghĩa giúp đỡ, đầu tư, viện trợ, thực tế là trút phần ô nhiễm cho người khác.

Hỏi: Quả lắc tự xoay có ý nghĩa như thế nào?

Đáp: Nó xoay theo nguyên lý tự xoay: Ví như điện tử xoay nguyên tử, mặt trăng xoay theo quả đất, quả đất xoay theo mặt trời, mặt trời xoay theo ngân hà, nay Phóng vệ tinh lên trên không cũng xoay theo quỹ đạo ... Sức của tâm cũng vậy, chẳng bao giờ ngưng. Nên Kinh Pháp Bảo Đàn nói “Tất cả đều lay động chẳng tịnh”.

Hỏi: Hiện nay có một số người Thiên Chúa giáo phản đối Phật giáo đồ, cho là không đúng, vậy như thế nào?

Đáp: Chính Phật giáo đổ đối với Phật pháp cũng chỉ hiểu một cách mơ hồ. Trong cuốn Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền, tôi có đề cập đến sự nhận thức của một Linh mục người Mỹ nói về Phật giáo, sự hiểu biết của ông ấy còn hơn Phật giáo đồ.

Vì Phật giáo chỉ là giải phẫu tâm linh, còn nhà khoa học là giải phẫu thể xác; thể xác chỉ là chiếc xe chở sinh mạng, chứ chẳng phải chủ sinh mạng, chủ sinh mạng là tâm linh. Cho nên, nhà khoa học muốn tìm hiểu sinh mạng, mà cứ giải phẫu thế xác thì làm sao tìm được?

Muốn tận phải tìm hiểu chủ sinh mạng. 

Ví như khoa châm cứu, thời xưa Đạo giáo đã dùng tâm linh phát hiện kinh lạc nơi cơ thể con người, gồm mười bốn kinh lạc và những huyệt vị, nhà khoa học thời nay khi giải phẫu thể xác chỉ thấy thần kinh, không thấy kinh lạc. Dù chẳng thể phát hiện qua ngũ giác quan, nhưng công hiệu của châm cứu liệu pháp thì chẳng thể phủ định, nên trường đại học Mỹ có khoa châm cứu, cũng phải thực hành theo hệ thống kinh, lạc, huyệt do tâm linh phát hiện.
 

Hỏi: Vì sao Thầy trở thành Tu sĩ?

Đáp: Thuở xưa khi bà nội tôi mất, tôi tự nghĩ tại sao lại có sự chết ? Đến khi ba tôi mất thì tôi mới nghĩ sau này tôi cũng phải chết”. Từ đó tôi thường nghĩ rằng sự chết đó có thể giải quyết được không ? Sau đó xem kinh Phật, mới biết việc này có thể giải quyết. Tôi bèn phát tâm xuất gia, và bây giờ tôi phát hiện được sanh tử vốn là không ! Như tôi đã nói ở trên: Chủ sinh mạng là tâm linh, tâm linh không có sanh tử.

Hỏi: Lúc Thầy xuất gia còn thân phụ thân mẫu không?

Đáp: Tôi còn một người mẹ nhưng không phải mẹ ruột, bà nuôi tôi từ lúc tôi bốn tuổi, mới chết cách đây mấy tháng, còn người mẹ ruột thì mất lúc tôi chưa đầy một tuổi. 

Hỏi: Thế thì Thầy cảm thấy an lạc không ? Cảm thấy có gì là quan trọng không? 

Đáp: Chẳng có an lạc hay không an lạc, vì vốn là trống rỗng chẳng có gì cả, thành ra tôi đi đến đâu cũng như vậy thôi. Nếu có cái gì quan trọng thì chẳng phải Tổ sư thiền; luôn cả Tổ sư thiền cũng không phải Tổ sư thiền. Hễ có mục đích là có sở trụ, là chướng ngại. Như  bốn bài kệ của Ngài Huyền Giác Vĩnh Gia đại sư dùng cánh tay để thí dụ vô duyên tri của Phật tánh, cũng gọi là Chánh Biến Tri, cũng gọi là Trí Bát Nhã. Kinh Lăng Nghiêm nói "Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn", nay Ngài Vĩnh Gia dùng cánh tay để thí dụ sự tri chẳng thể kiến lập, vì có kiến lập thì có nhân duyên đối đãi, chẳng thể gọi là Vô Duyên Tri. Nói "Vô duyên" là không có nhân duyên đối đãi, như bài kệ thứ nhất: Nếu kiến lập sở tri, dù sở tri là tịch lặng, những người tu đến mức độ tịch lặng, cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh, tự cho là mức độ cao lắm mà chẳng biết hễ kiến lập sở tri thì có năng sở đối đãi, chướng ngại sự dụng hoạt bác vạn năng của bản tri (Vô duyên tri), như tay cầm cây như ý thì trụ nơi ngoại cảnh, đánh mất sự dụng hoạt bác vạn năng của tay, tay chẳng cầm cây như ý thì muốn lấy gì cũng được, hễ tay cầm cây như ý rồi thì lấy gì cũng chẳng được vậy.

Bài kệ thứ 2 là tiến thêm một bước, dù chẳng lập sở tri nhưng biết mình có năng tri vẫn là kiến lập sự tri, có tri thì có bất tri để đối đãi, nên chẳng phải vô duyên tri. Như tay chẳng cầm vật bên ngoài mà tự tác quyền (tự làm nắm tay), tác quyền rồi (tức là trụ nơi cái tri của tự mình kiến lập) thì mất hết sự dụng hoạt bác vạn năng của cánh tay, nên cũng chẳng thể cầm lấy đồ vật nào cả.

Vậy chẳng biết ngoại cảnh cũng chẳng tự có biết, người ta thường cho như thế là lọt vào vô tri như gỗ đá chẳng biết gì cả, nên có bài kệ thứ 3: Vì tự tánh rõ ràng, chẳng đồng như gỗ đá. Thế thì làm sao chứng minh được ?

Nên có bài kệ thứ 4 dùng cánh tay để chứng tỏ: Như tay chẳng cầm vật ngoài, cũng chẳng tự tác quyền, chẳng phải là không tay, vì tay vẫn an nhiên chẳng hề bị mất, nên chẳng đồng như sừng thỏ, Vì sừng thỏ chỉ có tên gọi mà chẳng có vật thật vậy.

Hỏi: Sư phụ tự nói là chỉ được giải ngộ, chưa chứng ngộ thì làm sao giải đáp được? 

Đáp: Đã giải ngộ thì tất cả đều giải được.

Hỏi: Con thừa nhận Sư phụ nói về tánh thấy tánh nghe là đúng, sự thấy nghe của mình có lúc không hoàn toàn, nhưng đó chỉ đúng theo logic thôi?

Đáp: Logic chỉ có thể dùng trong không gian ba chiều, có vật thể, thông qua tai mắt. Còn tâm linh là siêu logic, logic chẳng thể biện chứng được; vì logic chỉ có thể chứng tỏ không gian, chẳng thể chứng tỏ thời gian.

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua vài nét của ngài Nguyệt Khê?

Đáp: Ngài Nguyệt Khê tốt nghiệp tại trường đại học ở Thượng Hải, rất giỏi về ngoại ngữ Anh, Pháp và thông  thạo triết học Đông, Tây phương.

Người biên tập cuốn Nguyệt Khê Ngữ Lục và các tác phẩm của ngài, đem gom lại thành quyển Cội Nguồn Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì Của Thiền Tông. Tôi rất tiếc vì những đệ tử của ngài sau này trong việc xuất bản, lấy ý mình xen vào, nhiều người đọc không biết, nhưng khi tôi đọc thì biết sự khác nhau: Vì lời nói của người chưa kiến tánh với người đã kiến tánh khác nhau, mà người thường không thể phân biệt được.

Cũng như Kinh Pháp Hoa, do người trứớc tác chấp thật có Bồ tát Quán Thế Âm tại núi Phổ Đà, nên trong Phẩm Phổ Môn, người ta in thêm mười hai đại nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, rồi chấp thật có một vị Bồ tát Quán Thế Âm ngồi trên chiếc thuyền tuần tra nơi biển, hễ gặp ai cầu cứu thì hiện thân đến cứu giúp, mà chẳng biết là do tự tánh Quán Âm tự cứu, chỉ vì mọi người tin không nổi thôi.

Hỏi: Người thời nay có phương tiện đầy đủ, đáng lẽ dễ kiến tánh hơn, tại sao lại khó hơn đời xưa?

Đáp: Đó người thời nay trí thức logic quá mạnh, cái gì cũng phải hợp logic, nhưng tâm linh thì chẳng thể hợp với logic, vì logic là nghịch với tâm linh, chướng ngại tâm linh hiển hiện. Tức là: Hiển thịnh thì ẩn suy; thời nay do hiển quá thịnh nên ẩn phải suy.

Hỏi: Ở nước Mỹ, người ta cảm thấy đi đến Đạo Phật chẳng thể giải thoát?  

Đáp: Đạo Phật thời nay rất phức tạp, nhiều người dùng chủ quan của mình để giải thích Phật pháp, ấy đều nghịch với giáo pháp của Phật Thích Ca. Bởi vì Phật Thích Ca chẳng kiến lập chân lý, vừa nói ra liền phủ nhận, nay các nhà Phật học lại cho lời nói của Đức Phật là chơn lý, nói thế giống như ngoại đạo rồi.

Hỏi: Trên đường tu hành, chúng con khi thì hăng hái, khi thì giải đãi, làm thế nào để khắc phục cái vọng tri của mình?

Đáp: Lỗi tại có tri giác. Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri giác nãi chúng sanh”. Nay hãy nhìn qua thế giới vạn hữu, con người cho con cọp, beo, sư tử là ác thú, nhưng họ không bao giờ giết hại đồng loại, và chỉ giết hại loài vật khác khi lúc đói khi ăn no rồi thì không. Còn con người, ngày thường thì giết hại loài khác như gà, vịt, cá, heo ... ngoài ra còn giết hại đồng loại, như trong lúc chiến tranh, ấy đều là hành động theo sự hiểu biết của mình, rồi lập ra chủ trương của mình, tức dùng bộ não làm chủ.

Bộ não phải nhờ ngũ giác quan: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, con mắt thì muốn nhìn đẹp, chê xấu; lỗ tai thì thích tiếng khen, ghét tiếng chê; lỗ mũi thì muốn ngửi cái thơm; không chịu cái thúi; lưỡi thì muốn ăn cái ngon, chê cái dỡ, tất cả đều theo bộ não mà thỏa mãn dục vọng của mình, đến khi không thể thỏa mãn thì giết hại. 

Đức Phật là muốn cho Phật tánh làm chủ, chấm dứt chủ quyền của bộ não. Tu hành đạt đến mục đích cuối cùng, là để Phật tánh làm chủ. Đối với những người chẳng phải vì mục đích này, hoặc chỉ do hứng thú thì lúc có hứng thì siêng năng, hết hứng thì giải đãi, có khi do bị ngoại cảnh lôi kéo khiến giải đãi v.v... nên phải tập dần dần.

Hỏi: Trong quyển Trung Phong Pháp Ngữ đề ra bốn điều dễ và bốn điều khó, nói bốn điều dễ là để cho nhập đạo, bốn điều khó để cho tiến lên con đường đạo, là như thế nào?

Đáp: Bốn điều dễ là để tạo lòng tin, có lòng tin mới có thể nhập đạo. Vì TIN là mẹ của công đức. Nhưng hễ chấp vào chỗ đó thì bốn điều dễ sẽ đưa mình xuống địa ngục! phải giải quyết bốn điều khó rồi thì bốn điều dễ này là dễ, nếu không thì bốn điều dễ này là dễ xuống địa ngục vậy.
 
Hỏi: Tại sao đã có Thiền tông rồi lại còn có Mật tông?

Đáp: Mật tông lúc ban đầu kỳ thật là của tà đạo, sau khi Phật nhập Niết bàn mấy trăm năm, do ngài Long Thọ, Tổ thứ 14 của Thiền tông chỉnh sửa lại, khiến những tà đạo đương thời trở về chánh pháp, nên ngài làm Tổ cho sáu môn phái.

Hỏi: Thế nào là bình thường tâm?

Đáp: Bình thường tâm tức tâm như hư không chẳng dính mắc, là nói người đã kiến tánh, dù cho bom nguyên tử làm nổ tung trái đất này, tất cả đều tiêu tan, nó vẫn bình thường. Chứ không phải trong cuộc sống hằng ngày trải qua một cách bình thường gọi là bình thường tâm. Tâm của con người chưa kiến tánh thì chẳng thể bình thường được, ấy là điên đảo.

Hỏi: Có người hỏi Thiền sư Nam Tuyền: “Dưới pháp hội của Ngũ Tổ có năm trăm vị, người nào cũng thông thái và giỏi pháp lý. Vậy tại sao ngài chẳng truyền y bát cho người khác, mà lại truyền cho Lục Tổ Huệ Năng?”

Ngài Nam Tuyền đáp: “Sở dĩ truyền cho Huệ Năng, vì ngài không biết Phật pháp, nhưng biết đạo”. Nghĩa này là thế nào ?

Đáp: Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói: “Chẳng có pháp gọi là Phật pháp”, “pháp, phi pháp, phi phi pháp”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết, gọi là thuyết pháp” ... Không có pháp thì làm sao biết Phật pháp ? Vì ngộ được vốn là chẳng có pháp, nhưng chẳng phải phủ định tất cả pháp, pháp nào cũng y như cũ; cái tách vẫn là tách, quả cam vẫn là cam, chứ không có ý của cá nhân xen vào.

Hỏi: Vậy thế nào là đạo?

Đáp: Cũng vậy thôi. Thiền tông là hiểu thiền, hiểu đạo cũng không cho. Đạo là đường đi, muốn ngộ đến cuối cùng thì phải đi đúng đường lối; ví như tham Tổ sư thiền, đường lối thực hành tức là đạo.

Đạo khả đạo, phi thường đạo. Đạo mà có thể nói được thì chẳng phải là đạo, vì không có nhất định. Tất cả nói được đều chỉ là phương tiện, là cơ xảo. Tám mươi bốn ngàn pháp môn là tám mươi bốn ngàn con đường; đạo của Tịnh độ khác, đạo của Thiền tông khác … Dù đường đi mỗi mỗi khác nhau, chỗ đến thì chẳng khác.

Hỏi: Ngoài công án ra, có cách nào cho người thời nay tu hành được thích hợp không?

Đáp: Công án không bị thời gian, không gian hạn chế, khác hơn khoa học. Khoa học dần dần tiến bộ, còn công án là để phát hiện Phật tánh, Phật tánh thì không thể tiến bộ, vì hễ có tiến bộ là pháp sanh diệt.

Ví như công án “uống trà” của Tổ Triệu Châu:

Có người đến gặp Triệu Châu, ngài hỏi:

- Trước đây đã có đến đây chưa ?
- Dạ chưa.
- Uống trà đi!

Người khác đến, ngài lại hỏi:

- Trước đây đã đến lần nào chưa?
- Dạ có.
- Uống trà đi! 

Viện chủ hỏi: Sao người nào ngài cũng bảo đi uống trà?

Ngài nói: Viện chủ! 

- Dạ?
- Uống trà đi.

Bất kế thời xưa, thời nay, thuyết pháp phải tùy cơ, trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ, phù hợp ý Phật chẳng có tiến bộ, khế hợp đương cơ cũng chẳng có tiến bộ.

Hỏi: Đường lối tham thiền chỉ có một, nhưng trong lúc công phu, vì căn cơ khác nhau, mỗi người đi m ột lối rẻ, vậy là thế nào? 

Đáp: Thoại đầu dù có muôn ngàn, nhưng đều chỉ là một cái không biết; tất cả đều là tác dụng kích thích cái không biết, và khán thoại đầu. chỉ là nhìn vào chỗ không biết mà thôi.

Hỏi: Người tu Tồ sư thiền, có thọ Bồ tát giới không?

Đáp: Có. Đại thừa và Tối thượng thừa đều có thọ giới Bồ tát. Vì Đại thừa là Bỗ tát thừa, Tu sĩ Đại thừa phải thọ giới Bồ tát, nếu không thì chưa phải Đại thừa. Cư sĩ thì thọ hay không thọ cũng được. Còn Tiểu thừa (Thanh văn thừa) thì không thọ giới Bồ tát, chỉ thọ giới Tỳ-kheo mà thôi.

Hỏi: Người kiến tánh rồi còn sanh tử không?

Đáp: Thiền sư Pháp Diễn là thầy của ngài Đại Huệ và Viên Ngộ. Lúc đó ba huynh đệ Viên Ngộ đều tưởng mình đã ngộ, nhưng thầy lắc đầu không ấn chứng. Ba huynh đệ rất tức giận, xin ra đi. Thiền sư Pháp Diễn nói: “Sau này bệnh nặng mới biết ý của thầy”.

Vì hễ ngộ thì giải thoát được sanh tử, chưa ngộ triệt để, đến khi bệnh nặng, dùng sự ngộ đối trị không nỗi, lúc đó mới nhớ lại lời của thầy rồi quay trở về. Ngài Viên Ngộ quay về được một tháng thì kiến tánh triệt để.

Hỏi: Tại sao Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi đạo tràng mà chẳng thành Phật đạo?

Đáp: Đại Thông Trí Thắng Phật là Bích Chi Phật, tu theo Trung thừa, vì chấp ngồi nên chẳng thể thành Phật, chỉ chứng quả viên giác.

Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền có phải gấp rút đề câu thoại để thúc đẩy nghi tình không?

Đáp: Không có lấy ý mình để thúc đ ẩy gì cả, chỉ cần đừng nổi lên một niệm nào thì đã đủ rỗi. Bất cứ nỗi lên niệm gì đều là tâm trộm cắp, ngài Ẩn Am gọi đó là “Dụng tâm sai lầm”. Tổ nói:

- Người tham thiền rất kỵ dụng tâm sai lầm: Minh tâm kiến tánh là dụng tâm sai lầm, thành Phật thành Tổ là dụng tâm sai lầm; xem kinh giảng giáo là dụng tâm sai lầm, đi đứng nằm ngồi là dụng tâm sai lầm, ăn cơm ăn cháo là dụng tâm sai lầm, đại tiện tiểu tiện là dụng tâm sai lầm, nhất động nhất tịnh, nhất vãng nhất lai là dụng tâm sai lầm. Lại còn có một chỗ là dụng tâm sai lầm mà tôi không đám nói trắng ra. Tại sao? “Nhất tự nhập công môn, cửu ngưu xe bất xuất”, ý nói bất cứ nổi lên niệm gì, đều là dụng tâm sai lầm. Đến chỗ nhất tâm không nổi lên, vẫn còn là vô thỉ vô minh! Nhưng công phu đến chỗ thoại đầu là sắp kiến tánh, mà nếu ngồi tại chỗ vô tâm đó thì còn xa lắm.

Hỏi: Thế nào là Phật giáo, Phật pháp, Phật học?

Đáp: Phật giáo là giáo lý của Phật, Phật pháp là pháp thực hành giáo lý của Phật, để đưa mình đạt đến giải thoát tất cả khổ. Phật pháp mặc dù giúp cho sự giải thoát nhưng phải học, nên gọi Phật học.

Hỏi: Thế trí biện thông có phải là một trong Bát nhã? 

Đáp: Thế trí biện thông là chướng ngại cho sự kiến tánh, vì người thế trí biện thông chấp vào thế trí của chính mình, cho là cao nhất mà không buông bỏ được, nên thành chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là vạn pháp quy tâm?

Đáp: Ấy là người có tư tưởng chấp thật mới nói như vậy. Bản lai diện mục của bản tâm không có tương đối, Vạn pháp là tâm, tâm là vạn pháp, vạn pháp với tâm không phải có hai. Nếu tâm là tâm, vạn pháp là vạn pháp, tức có hai, là tương đối.

Cho nên, Phật nói tất cả đều do tâm tạo. Vì tâm khắp không gian, khắp thời gian thì vạn pháp đều ở trong tâm, không có cái nào ở ngoài tâm, nên nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp”. Vậy tại sao còn nói vạn pháp quy tâm “Những người nói vạn pháp quy tâm là tư tưởng chấp thật, còn nằm trong tương đối.

Hỏi: Tại sao Phật nói nhiều kinh?

Đáp: Vì muốn phá cái biết của bộ não, chư Tổ cũng vậy. Cái biết của bản tâm luôn luôn ứng dụng, nhưng không phải cái biết và không biết của bộ óc (ý thức). Vì cái biết và không biết của ý thức làm chướng ngại cái biết của bản tâm. Cho nên, sát na lìa ý thức là bản tâm hiện ra.

Người tham học mới vào cửa, Lâm Tế liền hét, người tham học mới vào cửa, Đức Sơn liền đánh, những hành động của Tổ là muốn chặn ngang nguồn suối ý thức. Nếu lúc đó lìa được ý thức thì ngay đó kiến tánh. Còn lìa ý thức chưa được thì phải phát nghi (không hiểu), như Lâm Tế bị Hoàng Bá đánh ba lần phát đại nghi, rồi sau này ngộ triệt để. Tất cả công án, thoại đầu của chư Phật chư Tổ đều vậy. Ngộ là hiện lên bản tâm của mình, chứ không phải ngộ đáp án của câu thoại hay công án.

Hỏi: Chánh biến tri và vô sư trí là như thế nào?

Đáp: Chánh biến tri là trí Bát Nhã, vô sư trí là trí không do ai dạy, Phật Thích Ca nói là Pháp Bản Trụ, nó tự như vậy, không phải do thầy truyền cho.

Hỏi: Ngũ thời bát giáo là gì?

Đáp: Ngũ giáo ở Trung Quốc có 5 hệ phái :Tố Sư thiền, Giáo môn, Tịnh Độ, Mật tông, Luật tông.

Phật thuyết pháp chia ra làm ba giáo thời:

- Giáo thời thứ nhất: Khi Phật mới thành đạo, vì muốn phá chấp của phàm phu và tà đạo, nên nói các pháp tứ đại ngũ uẩn để sáng tỏ không thật, gồm những bộ kinh Tứ A Hàm: Tăng Nhất A Hàm, Trường A Hàm, Trung A Hàm và Tạp A Hàm (Tiểu thừa).

- Giáo thời thứ hai: Phật vì phá chấp pháp của Tiểu thừa, nên thuyết tất cả pháp đều không thật, là những bộ Kinh Bát Nhã.

- Giáo thời thứ ba: Phật vì phá sự chấp có của Tiểu thừa, và phá chấp không của Đại thừa, nên thuyết pháp chẳng có chẳng không, để sáng tỏ nghĩa bất nhị của trung đạo, như những bộ Kinh Thâm Mật, Pháp Hoa ...

Đây là theo thời gian mà chia ra làm ba thời.

Còn 3 loại khác biệt:

- Giải thích các pháp có là đệ nhất thời.
- Giải thích các pháp không là đệ nhị thời.
- Giải thích giáo pháp trong đạo bất nhị là đệ tam thời.

Ba thời này không phải y theo thời gian, chẳng kể thời gian trước hay sau, mà chỉ phân theo nghĩa loại, gọi là 3 thời giáo.

Không có bát giáo, bát khổ thì có từ tam khổ cho đến vô lượng khổ.

Hỏi: Phiền não có hai:

- Nhuận nghiệp vô minh, nhuận là thấm nhuần là phiền não quá khứ.

- Nhuận sanh vô minh là đi đầu thai nơi tình thức, sanh khởi yêu ghét đối với cha mẹ.

Hai phiền não này vốn không có tự tánh, nếu ngộ được tự tánh thì chẳng có việc gì, tức là ngay đó không tịch thì ai còn có phiền não?

Đáp: Không phải chỉ có hai pháp này không có tự tánh, mà tất cả pháp đều không có tự tánh; chúng sanh và Phật cũng không có tự tánh. Tức là chẳng pháp nào mà có tự tánh ? Vì tự tánh vô sở hữu, tất cả pháp đều là tâm, tâm đã vô sở hữu thì các pháp đều vô sở hữu.

Thiền Sư Bổn Tịnh họ Trương, quê Hán Châu, xuất gia lúc còn nhỏ, được Lục Tổ ấn chứng nơi Tào Khê, rồi ẩn ở núi Tư Phong. Sau này, được nhà vua mời vào hoàng cung đàm luận với các vị cao Tăng.

Thiền Sư Viễn hỏi: ý của Thiền sư cho thế nào là đạo?

Sư nói: Vô tâm là đạo.

Viễn nói: Đạo vì tâm mới có, đâu thể nói vô tâm là đạo?

Sư nói: Đạo vốn vô sanh, bởi tâm mới gọi là đạo. Tâm chỉ là tên gọi, nếu tâm thật có thì đạo cũng thật có, tâm đã không tìm ra thì đạo do đâu mà lập ? Cả hai đều hư vọng, thảy là giả danh.

Viễn nói: Thiền sư thấy có thân tâm là đạo hay không? 

Sư nói: Thân tâm của sơn Tăng vốn là đạo.

Viễn nói: Vừa mới nói vô tâm là đạo, nay lại nói thân tâm vốn là đạo, họ chẳng phải ngược nhau ư?

Sư nói: Vô tâm là đạo, tâm diệt, đạo vô; tâm và đạo nhất như. Nếu nói vô tâm là đạo, thân tâm vốn là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm; thân tâm vốn là không thì tìm cội nguồn của đạo cũng chẳng có.

Viễn nói: Thấy hình tướng bề ngoài của Thiền sư rất nhỏ bé mà lại hiểu lý này.

Sư nói: Đại đức chỉ thấy tướng của sơn Tăng, chẳng thấy vô tướng của sơn Tăng, kẻ thấy tướng là Đại đức cảm thấy. Kinh nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nếu thấy tướng phi tướng tức là thấy đạo. Nếu cho tướng là thật, cũng chẳng thể thấy đạo.

Viễn nói: Nay Thiền sư ở nơi tướng mà thuyết vô tướng ư !

Sư nói: Kinh Duy Ma Cật nói: “Tứ đại vô chủ, thân cũng vô ngã thì sở thấy cùng đạo tương ưng. Đại đức ! Nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu có ngã kiến thì suốt kiếp chẳng ngộ đạo vậy.

Viễn nghe xong tâm chẳng còn thắc mắc. Sư có kệ rằng:

Tứ đại vô chủ, lại như thủy,
Gặp cong gặp thẳng chẳng bỉ thử.
Hai chỗ tịnh uế chẳng sanh tâm,
Thông nhãn đâu từng có ý khác.
Gặp cảnh chỉ như thủy vô tâm,
Tung hoành trên đời có việc gì?

Thiền sư Trí Minh hỏi: Nếu vô tâm là đạo thì ngói đá vô tâm cũng là đạo, lại nói thân tâm vốn là đạo, thế thì tứ sanh thập loại có thân tâm cũng là đạo?

Sư nói: Nếu hiểu theo kiến, văn, giác tri thì càng xa với đạo, là kẻ cầu kiến, văn, giác tri, chứ chẳng phải kẻ cầu đạo. Kinh nói: “Vô nhãn, như tỷ, thiệt, thân, ý”, lục căn còn không thì kiến, văn, giác tri do đâu mà kiến lập ? Tìm nguồn đã chẳng có thì chỗ nào còn tâm ? Đâu thể đồng với cây cỏ ngói đá !

Trí Minh bịt miệng.

Sư có kệ rằng:

Kiến, văn, giác tri vô chướng ngại,
Thanh, hương, vị, xúc thường tam muội.
Như ở nơi “không” đều sanh ra,
Chẳng lấy chẳng xả chẳng yêu ghét.
Nếu nơi tiếp xúc vốn vô tâm,
Mới được gọi là Quán Tự Tại.

Thiền sư Chân hỏi: Đạo đã vô tâm, vậy Phật có tâm chăng? Phật tới đạo là một hay là hai?

Sư đáp: Chẳng một cũng chẳng hai.

Hỏi: Phật độ chúng sanh là có tâm, đạo chẳng độ người là vô tâm; một độ một chẳng độ thì đâu thể chẳng hai?

Sư đáp: Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo thì chẳng độ ấy là Đại Đức vọng sanh nhị kiến, còn sơn Tăng không phải vậy ! Phật là hư danh, đạo cũng vọng lập, cả hai đều chẳng thật, thảy đều là vọng sanh. Trong một cái giả làm sao phân ra làm hai?

Hỏi: Phật với đạo tuy là giả danh, thì giả danh này ai lập ? Nếu có kẻ lập thì đâu thể nói không?

Sư đáp: Phật với đạo bởi tâm mà lập, tuy lập nhưng tâm vẫn là không, tâm đã là không, liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn thì ngộ vốn không, cưỡng lập hai tên thật với giả, ấy là kiến giải của Nhị thừa.

Do đó, Sư thuyết kệ vô tu vô tác rằng:

Thấy đạo mới tu đạo,
Chẳng thấy làm sao tu ? 
Tánh đạo như hư không,
Hư không lấy gì tu ? 
Quán khắp người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt nước.
Thấy xem hát múa rối,
Dây đứt hết cả thôi.

Thiền sư Pháp Không hỏi: Phật với đạo đều là giả danh, vậy mười hai phần giáo cũng không phải thật. Tại sao các tôn túc xưa kia đều nói tu đạo ?

Sư đáp: Đại Đức hiểu lầm ý người xưa rồi, đạo vốn vô tu mà Đại Đức cưỡng tu ! Đạo vốn vô tác, mà Đại Đức cưỡng tác ! Đạo vốn vô sự, mà lại cưỡng sanh nhiều sự, đạo vốn vô tri, mà cưỡng sanh nhiều tri. Kiến giải như thế, trái ngược với đạo. Các tôn túc xưa chẳng phải như thế, chỉ vì Đại Đức không hiểu thôi, suy nghĩ kỹ xem !

Sư có kệ rằng:

Đạo thể vốn vô tu,
Vô tu tự hợp đạo.
Nếu khởi tâm tu đạo,
Người ấy chẳng hiểu đạo.
Bỏ mất tánh nhất chân,
Lại vào chỗ náo nhiệt.
Bổng gặp người tu đạo,
Tốt nhất chớ hướng đạo.

Thiền sư Am hỏi: Đạo đã giả danh, Phật cũng vọng lập, mười hai phần giáo dùng để thuyết Pháp độ sanh, tất cả đều vọng thì lấy gì độ sanh ?
Sư đáp: Vì có vọng nên mới lập chân để đối trị cái vọng, nay truy tìm tánh vọng vốn không thì chân cũng đâu có ? Nên biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị với nhau nên chẳng thật thể. Suy tìm cội gốc thì tất cả đều không.

Hỏi: Đã nói tất cả đều vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng chẳng khác, vậy là vật gì?

Sư đáp: Nếu nói vật gì thì vật gì cũng vọng, khi nói không tương tự chẳng so sánh, đường ngôn ngữ dứt, như chim bay trên hư không, chẳng có dấu vết.

Thiền sư Am cảm thấy hổ thẹn kính phục. Sư có kệ rằng:
Suy chân chân vô tướng,
Tìm vọng vọng giả danh.
Ngộ đạo cũng như thế,
Rốt cuộc chỉ là vậy.

Thiền sư Đại Tánh hỏi: Lời Thiền sư rất vi diệu, chân vọng đều diệt, Phật đạo đồng quy, tu hành tánh không, nên tướng chẳng thật. Thế giới như huyễn, tất cả giả danh, lúc hiểu theo như thế, chẳng phải đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh ư?

Sư đáp: Hai gốc thiện ác bởi tâm mới có, tìm tâm có thì gốc mới có, suy tâm đã không thì gốc do đâu mà lập? Kinh nói: “Pháp thiện và pháp bất thiện từ nơi tâm hóa sanh, thiện ác nghiệp duyên vốn chẳng có thật”.

Sư có kệ rằng:

Thiện cũng từ tâm sanh
Ác cũng chẳng lìa tâm.
Thiện ác là ngoại duyên,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác về chỗ nào ?
Lấy kiến để ai giữ ?
Than ôi ! Người giữ kiến,
Phan duyên chạy hai đầu.
Nếu ngộ tâm vốn không,
Mới biết trước lỗi lầm.

Có Đại thần hỏi: Thân này từ đâu đến, trăm năm sau đi về đâu?

Sư đáp: Như người lúc mơ từ đâu đến, lúc thức tỉnh đi về đâu?

Hỏi: Lúc mơ chẳng thể nói không, lúc thức tỉnh chẳng thể nói có. Dù có nhưng vô vãng lai, mà chẳng xứ sở.

Sư đáp: Thân của sơn Tăng này cũng giống như mộng.

Khai thị kệ rằng:

Đời người như trong mộng,
Trong mộng thật náo nhiệt.
Bổng giác vạn sự như,
Đồng như người mới thức,
Người trí ngộ việc mộng.
Kẻ mê tin mộng thật,
Tỉnh mộng như là hai.
Khế ngộ thì chẳng khác,
Phú quí với bần tiện,
Chẳng có đường phân biệt.

Năm thứ 2 niên hiệu Thượng Nguyên nhà Đường. Sư viên tịch, vua ban hiệu Đại Hiển Thiền Sư.

Hỏi: Nếu người ta chỉ dạy người khác tin cõi Phật Di Đà và khuyến khích niệm danh hiệu Phật A Di Đà, không còn pháp nào khác nữa. Vậy thì như thế nào?

Đáp: Phật có quy định cho người thuyết pháp là đại khai duyên giải, tức giải ngộ tất cả các pháp đều không có khác, nếu không thì lọt vào một bên, gọi là biên kiến ở trong 5 năm thứ ác kiến. Nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không biết. Nên Ngài Bá Trượng nói:

“Nếu Pháp sư thuyết pháp chỉ giảng được một câu hay hai câu, là nằm trong tương đối, thì Pháp sư đó bị tội địa ngục, nếu giảng thấu ba câu, mà người nghe hiểu lầm là lỗi của người nghe, không đính dáng với Pháp sư”.

Đức Phật trong Kinh Pháp Hoa quy định tư cách pháp sư giảng kinh: Nếu Pháp sư không biết mà giảng bậy bạ, gọi là cuồng vọng thuyết pháp, bị tội địa ngục. Như Pháp sư thuyết pháp không người nào tin thì pháp sư đó không có tội, vì không hại đến ai. Ngược lại, người tin nhiều chừng nào thì pháp sư bị tội lớn chừng nấy.

Hỏi: Có chỗ nói bát giáo là: Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo, Bí Mật Giáo, Tiệm Giáo, Đốn Giáo, Bất Định Giáo. Vậy những thứ này như thế nào?

Đáp: Những thứ này là do tông đó chia ra như vậy, chứ Phật giáo không chia. Như trong Kinh Lăng Già có chia theo căn tánh của chúng sánh, gồm có: Thanh Văn chủng tánh, Duyên Giác chủng tánh, Bồ Tát chủng tánh, Bất định chủng tánh, Ngoại đạo chủng tánh.

Vừa rồi nói giáo pháp tam thời do có nghĩa khác biệt mới chia làm tam thời theo thời gian, đó là người đời sau chia ra tổng quát, để các tông phái nào cũng đều thích hợp.

“Đốn, tiệm, biệt (thiên), viên”, những thứ này có thể còn có nghĩa, kỳ thật không có nghĩa để kiến lập. Kinh liễu nghĩa đều bao gồm “Đốn, tiệm, biệt, viên”, như năm quyển trước của Kinh Lăng Nghiêm tiếp người thượng căn, gần như pháp đốn; còn năm quyển sau tiếp người trung, hạ căn. Mà bao gồm hết gọi là viên, nghiêng về mê gọi là biệt, tiệm tu và đốn ngộ gọi là đốn tiệm. Bất cứ quyển kinh liễu nghĩa nào cũng bao gồm đầy đủ.

Tạng Pali của Tiểu thừa không có Đại thừa, mà lại không nhìn nhận có Đại thừa.

Kinh Hoa Nghiêm bao gồm lục tướng (đồng, dị, tổng, biệt, thành, hoại). Ở trong lục tướng chia ra làm 2: Sai biệt và bình đẳng. Tướng thành, tướng đồng và tổng tướng thuộc về bình đẳng; còn tướng biệt, tướng dị và tướng hoại thuộc về sai biệt.

Hỏi: “Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa”, lối chia này của người Tối Thượng thừa. Như vậy người Tiểu thừa có công nhận lối chia này không?

Đáp: Lối chia này không phải do Phật Thích Ca chia, mà là do người đời sau. Phật Thích Ca ban đầu thuyết liễu nghĩa, nhưng người nghe không chấp nhận được, nên phải thuyết bất liễu nghĩa, rồi mới thuyết liễu nghĩa.

Tam thừa giáo là đối tượng khác nhau, ban đầu phá chấp của phàm phu và tà đạo, thời thứ nhì phá chấp của Tiểu thừa, giáo thời thứ ba phá chấp Đại thừa. 

Phật thuyết pháp là để khế hợp với căn cơ, chứ không phải có chia. Những việc này là những giai đoạn, Đại thừa không phải thật, vì Phật cũng phủ định Nên Phật nói: “Ta 49 năm thuyết pháp, chưa từng nói một chữ”.

Tất cả lời của Phật nói ra liền phủ định, những người dịch kinh chấp có pháp thật, là vì không hiểu căn bản Phật pháp, cũng có ý của mình xen vào.

Như tông Thiên Thai, đến Tổ thứ ba là Trí Giả đại sư mới hoàn thành đầy đủ giáo lý của tông Thiên Thai. Trí Giả đại sư ở trên núi Thiên Thai, nên người ta gọi là tông Thiên Thai. Tông Hoa Nghiêm cũng vậy, đến đời Hiền Thủ đại sư mới hoàn thành giáo lý của tông Hoa Nghiêm, vì Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm là Hiền Thủ, nên người ta gọi là tông Hiền Thủ.

Tông Thiên Thai căn cứ Kinh Pháp Hoa để tu, cũng gọi là Pháp Hoa Tông. Tông Hiền Thủ căn cứ Kinh Hoa Nghiêm, cũng gọi là Hoa Nghiêm tông, đều là kinh liễu nghĩa. Nói về giáo lý đầy đủ phong phú, thì Kinh Hoa Nghiêm hơn Kinh Pháp Hoa.

Hỏi: Tổ Sư thiền có câu thoại đầu làm phương tiện, tông Hiền Thủ có kinh Hoa Nghiêm để tu, vậy nên bỏ và lấy cái nào ? Cái nào hơn?

Đáp: Chẳng có bỏ và lấy cái nào cả, cũng chẳng có cái nào hơn cái nào. Pháp thiền của tông Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới Quán Thiền, chia làm 4 loại: -Lý pháp giới -Sự pháp giới -Lý sự vô ngại pháp giới -Sự sự vô ngại pháp giới.

Sau 49 năm thuyết pháp, trong hội Linh Sơn, Đức Phật đưa lên cành hoa, Ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, lúc đó Thiền tông ra đời, còn gọi là pháp thiền trực tiếp, cũng gọi pháp Tổ Sư thiền.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem Tổ Sư thiền qua Trung Quốc truyền cho Huệ Khả ... sau Lục Tổ Huệ Năng mới có năm phái thiền, đều là Tổ Sư thiền, nhưng mỗi gia phong có khác, mà ngộ đạo thì không khác. Như Lâm Tế dạy người tham học, vô cửa liền hét, Đức Sơn vô cửa liền đánh, với mục đích niêm hoa thị chúng của Phật và gia phong của chư Tổ đều không khác.

Hỏi: Trung thừa dùng kinh nào để tu?

Đáp: Trung thừa dùng Thập Nhị Nhân Duyên, nên gọi là Duyên Giác, vì do nhân duyên mà được ngộ đạo. Lúc họ ngộ đạo mà không có Phật thì gọi là Độc Giác, họ không cần kinh điển, quán vũ trụ vạn hữu có thành, trụ, hoại, không hay sanh, trụ, dị, diệt.

Hỏi: Thập Nhị Nhân Duyên ở trong kinh nào?

Đáp: Thập Nhị Nhân Duyên không ghi ở trong kinh nào, nhưng tất cả kinh nào cũng có, vì đó là nhân duyên. Phật pháp là do nhân duyên hòa hợp nên sanh, nhân duyên tan thì diệt. Phật pháp nói đến nhân duyên, nhưng nhân duyên là tánh không, là phương tiện để phá chấp của tà đạo và Tiểu thừa.

Ngưỡng Sơn thí dụ: Lục căn như căn nhà có sáu cửa sổ giữa nhà thắp một cây đèn, ánh sáng rọi ra sáu cửa sổ ra ngoài. Tiểu thừa đem màng đen che sáu cửa sổ, để cho ánh sáng khỏi tiếp xúc cảnh ngoài, có khi cũng có thể ánh sáng lọt ra ngoài. Tối Thượng thừa khỏi cần che cửa số, chỉ cần tắt cây đèn là xong, thì đâu còn ánh sáng để tiếp xúc bên ngoài. Cửa sổ vẫn y nguyên, và ánh sáng trong nhà và ánh sáng ngoài nhà đều giống nhau.

Hỏi: Nói là từ chỗ không có bắt đầu, rồi đến chỗ không cuối cùng. Nhưng Phật giáo chia ra nhiều thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa). Như vậy việc ấy như thế nào?

Đáp: Phật thuyết pháp vừa xong liền phủ định không có thừa nào cả. Thiền Sư Bổn Tịnh nói: “Phật còn không có, Tâm cũng không”. Giáo pháp là đề hiển bày tâm, nếu tâm còn không thì hiển bày cái gì ?

Hỏi: Sư Phụ nói: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, chỉ có Tối Thượng thừa tham thoại đầu, công án ... mà sao con thấy cái nào cũng giống nhau, phải không?

Đáp: Phải, cuối cùng cái nào cũng đều giống nhau. Vì hỏi sự khác biệt của các thừa, nên Phật dùng phương tiện để giải thích, cuối cùng Phật đã phủ định. Nếu đến chỗ cuối cùng thì chẳng có cái gì, như hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả, dùng hư không để thí dụ tâm mình cũng vô sở hữu. Tâm đã vô sở hữu thì lấy cái gì để lập ra giai cấp ?

Ông đã có tư tưởng chấp thật, tôi giải thích chỗ cuối cùng là vô tu vô chứng, Bồ Đề viên mãn thì không tu không chứng. Không tu làm sao có giai cấp, có bậc Trung thừa, Đại thừa? Làm sao có tu chứng ?

Hỏi: Trong kinh nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn để tu sao Thầy chỉ dạy một pháp môn?

Đáp: Một pháp môn cũng bao gồm tất cả pháp môn. Pháp môn nào cũng đều muốn hiển bày cái Tâm, Tổ sư thiền là pháp thiền trực tiếp, đi con đường thẳng, những pháp kia là đi con đường gián tiếp, nhưng cuối cùng cũng từ nghi đến ngộ. Cho đến Tịnh Độ và các pháp thiền Đại thừa cũng vậy. Còn thiền Tiểu thừa chưa ngộ triệt để, vì họ ngộ rồi còn chấp cái ngộ, nên gọi là Niết Bàn Tiểu thừa.

Nói tám mươi bốn ngàn pháp môn chỉ là ước số, chứ không phải thật nhất định có tám mươi bốn ngàn pháp môn. ở Trung Quốc gồm năm phái: Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, Mật.

Hỏi: Như Xã hội văn minh và xã hội kém văn minh thì Pháp môn Tối Thượng thừa thích hợp cho xã hội nào?

Đáp: Đa số người phương Tây thích tìm hiểu, người phương Đông cũng vậy. Không những các nhà triết học, khoa hoa học tìm hiểu, những người hoằng dương Tổ sư thiền, phần nhiều cũng dạy người ta tìm hiểu. Cho nên, tìm một người ngộ đạo thật khó. Tuy thật khó, nhưng đời nào cũng có người ngộ đạo.

Giáo Môn của Trung Quốc, Đại thừa có 4 tông:

Thiên thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức.

Tông Thiên Thai có Trí Giả đại sư ngộ đạo, nhưng chính Trí Giả đại sư nói: “Tôi chỉ ngộ được ngũ phẩm, nếu tôi không dẫn chúng tu hành thì có thể ngộ cao hơn”. Sau Trí Giả đại sư là không thấy có ai ngộ. Pháp sư tông Thiên Thai giảng kinh thuyết pháp bây giờ vẫn còn. nhưng dù giảng theo giáo lý Thiên Thai, lại quy về Tịnh Độ. Như Pháp sư Đế Nhàn giảng giáo lý Thiên Thai, nhưng thực hành Tịnh Độ.

Bây giờ ở Việt Nam cũng có Thiên Thai Giáo Quán Tông. Quán Tông Tự của Ngài Đế Nhàn ở Tỉnh Triết Giang Trung Quốc. Bên này cũng nói là Thiên Thai Giáo Quán Tông, nhưng đối với giáo lý Thiên Thai thì không biết.

Tông Duy Thức là do Pháp sư Huyền Trang từ Ấn Độ truyền qua, dịch kinh thì nhiều, nhưng không có nghe ai chứng quả.

Tổ của Tam Luận Tông là Ngài Long Thọ, sau này không nghe ai chứng quả nữa.

Trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 Tổ kiến trình đều có ghi rõ họ tên, sự truyền thừa và nhân quyền được ngộ. Như có người thấy con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở mà ngộ, có người đi bị vấp té mà ngộ, có người bị bạt tai mà ngộ, có người nghe hát mà ngộ …

Ví như Hòa Thượng Thủy Lão là một cao Tăng, đến yết kiến Mã Tổ. Mã Tổ bảo đảnh lễ, Thủy Lão vừa quỳ xuống thì bị Mã Tổ đá nhào xuống đất liền ngộ.

Đệ tử của Thiền sư Đạo Lâm tên là Hội Thông, muốn từ giả đi nơi khác, Đạo Lâm hỏi: ông muốn đi chỗ nào ?

Hội Thông nói: Con xuất gia là muốn giải thoát, Thầy không dạy Phật pháp thì làm sao giải thoát ?

Thầy nói: Nếu Phật pháp thì ở đây tôi cũng có chút đỉnh vậy.

Hỏi: Thế nào là Phật pháp của Hòa Thượng?

Đạo Lâm nhổ lông áo dài thổi trước mặt Hội Thông, Hội Thông liền ngộ.

Công án như vậy ở trong Thiền Tông rất nhiều.

Những người thông thạo giáo lý mà ngộ cũng có, như Nam Tuyền ... người không biết giáo lý ngộ cũng có .

Tiểu thừa cho là người nữ không thể ngộ, nên các nước Tiểu thừa không cho người nữ xuất gia. Còn trong Thiền tông có nhiều người nữ ngộ đạo. Trong Đường Lối Thực Hành Tham Thiền đề ra ba đứa bé gái (8 tuổi, 13 tuổi, 5 tuổi) ngộ đạo.

Đức Phật là muốn chúng ta ngộ, chứ không phải muốn chúng ta hiểu. Nếu đuổi theo cái kiểu đó thì không bao giờ ngộ được.

Cô Trịnh 13, lúc 12 tuổi, theo một vị Sư cô đi tham vấn Quy Sơn. Sư cô ấy đuổi theo lời nói, Trịnh 13 tuổi ngộ mà tự mình không biết.

Trưởng lão Bảo Phước hỏi: Có phải Trịnh 13 gặp Quy Sơn không?

Trịnh 13 đáp: Phải.

Bảo Phước hỏi: Quy Sơn tịch rồi sẽ đi về đâu?

Trịnh 13 không trả lời, đứng một bên thiền sàng.

Trưởng lão khác hỏi: Ngày bình thường miệng nói như suối chảy, sao hôm nay lại không nói?

Trịnh 13 nói: Nhúc nhích hai miếng da này làm được gì?

Trưởng lão nói: Vậy không dùng hai miếng da thì làm được cái gì?

Trịnh 13 nói: Bịt miệng con chó lại.

Trịnh 13 theo đến Quy Sơn lễ bái rồi đứng dậy, Quy Sơn hỏi: Sư cô này ở đâu?

Sư cô nói: Ở bờ sông Nam Đài.

Quy Sơn liền hét đuổi ra, rồi hỏi: người đứng sau lưng Sư cô ở đâu?

Trịnh 13 lại gần.

Quy Sơn hỏi lại lần nữa.

Trịnh 13 nói: Đã trình cho Hòa Thượng rồi!

Quy Sơn bảo Trịnh 13 và Sư cô đi xuống Pháp Đường. Sư cô nói: Bình thường Trịnh 13 nói chuyện như kiếm bén, tại sao Đại Sư hỏi lại không trả lời được?

Trịnh 13 nói: Khổ thay! Khổ thay! Uổng công lâu nay phải đi hành cước, nên cởi áo xuất gia cho tôi mặc đi!

Sau này đem chuyện kể cho Thiền sư La Sơn (Thiền Sư đã ngộ, có danh tiếng): Tôi tham kiến Quy Sơn và trả lời như vậy được không?

La Sơn nói: Chẳng những không lỗi!

Sư cô nói: Lỗi ở chỗ nào?

La Sơn nạt một tiếng. 

Trịnh 13 nói: Như gấm thêu hoa.

Hỏi: Sư phụ nói trong sách lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 người đã ngộ, khi một người được ghi là ngộ, ấy là do chính người đó nói là tôi ngộ, hay do người khác xác nhận người đó ngộ, mới được ghi vào sử ? Ví dụ nhớ lại Phật Thích Ca tự nói ta ngộ, chứ đâu có ai xác nhận Phật đã ngộ ?

Những quyển sách của người Trung Hoa hay của người Nhật Bản nói: Các đệ tử tham thoại đầu hay tham công án rồi vào gặp Thầy trình sở đắc của mình. Đầu tiên, Thầy nói chưa ngộ gì hết. Lần thứ hai có thể gần, lần thứ ba cũng chưa, lần thứ tư nói là ngộ. Vậy chuyện trong sách do người Thầy nói đã ngộ, hay người đệ tử nói chính tôi ngộ rồi? Ai xác nhận?

Đáp: Không phải ai nói, trong Pháp Bảo Đàn, có người hỏi Lục Tổ: Ngài ngộ chưa?

Lục Tổ nói: Tôi chưa ngộ.

Trong Nam Tuyền Ngữ Lục có kể công án về ông quan hỏi Ngũ Tổ:

- Tại sao 500 Tăng chỉ có Lục Tổ được truyền y bát, còn những người kia không được truyền?

Ngũ Tổ nói: 499 người kia đều biết Phật pháp, chỉ có Huệ Năng là siêu việt, nên mới được truyền.

Ai xác nhận đâu ! Ngày xưa, lời nói của chư Tổ không cho đệ tử ghi, nhưng do tánh con người ham biết mới ghi lên. mới thành Truyền Đăng Lục, lúc ấy vua niên hiệu là Cảnh Đức, nên gọi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Trong đó ghi 1700 công án, những người ngộ này có thầy ấn chứng, nhưng sự ấn chứng không nói ra, Như Quy Sơn và La Sơn ấn chứng Trịnh 13 đã ngộ, nhưng không nói đã ngộ.

Hỏi: Nếu người đã kiến tánh mà không có thầy ấn chứng thì người đó có thể tự biết không?

Đáp: Thì người đó tự biết, mà cái biết đó không phải và cái biết của bộ não. Như Trịnh 13 đã ngộ thì tự biết, còn Sư cô chẳng biết gì. Vì sự hiểu biết của người thế gian là cần có cái gì để chứng minh, nhất là dùng logic để chứng minh. Logic chỉ chứng minh được những việc tương đối; còn kiến tánh là phủ nhận tương đối, dùng logic không thể chứng minh được, và người thường cũng không thể lấy cái gì để chứng minh, chỉ có người ngộ với người ngộ tự biết. Nhưng nói với người chưa ngộ thì không được.

Hỏi: Người tham thiền chỉ một ngày chết phải đi đầu thai, còn người tu Tịnh Độ sau khi chết có vị nào đó đến hướng dẫn thần thức đi đầu thai đến chỗ tốt. Như vậy là thế nào?

Đáp: Diệu Cao Thiền Sư tham thiền rất dũng mãnh, nhưng ngồi tham thiền lại buồn ngủ. Ngài lên ngồi trên tảng đá, phía dưới là vực thẳm, lúc ngồi tham thiền cũng buồn ngủ rồi té xuống vực thẳm, nhưng lại có người đỡ. Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy?

Đáp: Hộ pháp Vi Đà.

Thấy có người cứu bèn nổi ý kiêu căng, mừng thầm và nghĩ: Khắp thiên hạ có ai bằng như tôi!

Hộ pháp Vi Đà nói: ông nổi niệm kiêu căng, nên 20 năm tôi không hộ pháp cho ông nữa.

Diệu Cao nghĩ lần này hễ té xuống mà không ai cứu thì phải chết, nhưng chẳng thà chết cũng ngồi nữa”. Ngài đã tự sám hối, rồi ngồi tham thiền. Lúc ngồi tham thiền lại buồn ngủ té xuống vực thẳm, rớt chưa tới đất đã có người đỡ lên.

Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy? 

Đáp: Hộ Pháp Vi Dà.

Ngài nói: Vừa rồi ông nói 20 năm không hộ tôi, mà tại sao bây giờ lại hộ?

Hộ Pháp Vi Đà nói: ông khởi lên một niệm sám hối thì đã hơn 20 năm.

Một niệm sám hối đã hơn 20 năm, vì thời gian tánh không.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị 2 đoạn văn của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng:

Trong suốt ngày đêm chỉ muốn niệm niệm chẳng quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống, đứng dậy, đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật cho đến khốn khổ, hoạn nạn, hiểm nguy cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si, như say; nghe tiếng, thấy sắc như điếc, như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào một chỗ, lơ đãng một chút ắt chuột chạy mất. Như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm này là một điều khó.

-Tham thiền chẳng linh nghiệm, thường chỉ là tâm trộm cắp chưa chết. Vì thế năm tháng trôi suông, chứ không có bệnh nào khác. Nếu tâm trộm cắp nay chết ở ngày hôm nay thì ngày hôm nay liền tương ưng, chết ở ngày mai thì ngày mai bèn tương ưng.

Cái gì là tâm trộm cắp?

Hễ lìa câu thoại đầu sở tham ra, riêng thấy có tự kỷ là tâm trộm cắp. Ở ngoài cái tự kỷ bị thấy ra, riêng thấy có nhân, có ngã là tâm trộm cắp. Lúc tham được thuần thục biết thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc tham thiền chẳng thuần thục biết chẳng thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc chẳng thấy có hôn trầm, tán loạn, chỉ có câu thoại đầu sở tham cùng nghi tình giao kết chẳng gián đoạn, ấy là tâm trộm cắp. Hễ ớ chỗ khán thoại đầu chợt sanh một niệm, bất luận là phàm, là Thánh, là chân, là ngụy, nói chung đều là tâm trộm cắp.

Bỗng có người linh lợi hướng vào chỗ tôi nói đều chẳng dính dáng, riêng giúp cho một con đường là đạo, là lý, là kiến, là văn, đây gọi là tâm trộm cắp trong tâm trộm cắp. Phật chẳng thể cứu chữa, chỉ cần hết những tâm trộm cắp, chỉ thế ấy y bổn phận nắm chắc câu thoại đầu sở tham như tượng gỗ, tượng đất, như người chết có hơi thở, ngoài chẳng thấy có đại chúng, trong chẳng thấy có tự kỷ, lạnh băng băng, tuyệt kiến văn, như vậy giữ đi, lâu ngày sẽ được tâm không thi đậu về.

Đáp: Nói tóm lại hai đoạn trên: Trình của con người ham nghiên cứu lý và cầu hiểu biết, nhất là người phương Tây. Nhưng bây giờ người phương Đông cũng vậy. Tổ Sư thiền thì phải lìa lý, lìa hiểu biết, phải ngược lại. Khoa học phải nghiên cứu lý để tìm hiểu cho biết. Trong Phật pháp, phàm có biết một chút gì đều gọi là sở tri ngu, hiểu biết rất vi tế cũng gọi là cực vi tế sở tri ngu, là tâm trộm cắp.

Nếu có lý cao siêu về lời Phật cũng là tâm trộm cắp. Pháp sư giảng kinh có lý rất hay, cũng lọt vào tâm trộm cắp … Muốn lìa lý lìa hiểu biết rất khó, vì cuộc sống hằng ngày người ta cần hiểu biết, nếu không hiểu biết thành khờ ngốc sao ?

Nếu thấy cái gì cũng như mù, nghe cái gì cũng như điếc thì không bị ngoại cảnh lôi kéo. Hễ muốn đến chỗ vắng lặng để tu hay nhập thất, việc ấy rất là có hại, vì không thấy cảnh thì không khai tâm động niệm, nhưng nhập thất một thời gian rồi ra thì thấy tâm còn động thêm nhiều. Theo Thiền Tông khi ngộ rồi mới nhập thất để bảo nhiệm.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị thêm đoạn văn của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng dưới đây:

- Người học đạo có linh nghiệm là tâm trộm cắp chết hết. Tâm trộm cắp còn một mảy lông chết chẳng hết thì muôn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trộm cắp thì học được một phần đạo. Chết được tâm trộm cắp năm phần thì học được năm phần đạo. Tâm trộm cắp hoàn toàn không thì toàn thể là đạo. Bởi vì sự chướng đạo của tâm trộm cắp giống như bụi bặm che mất ánh sáng của gương.

Người thời nay chỉ biết có đạo để thành, mà chẳng biết có tâm trộm cắp nên hết. Hoặc tâm trộm cắp chưa hết mà muốn đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn đừng ước, xưa nay trong thiên hạ không có lẽ đó.

Thuở xưa Hòa Thượng Vĩnh Minh thống thiết nói:

“Tình sanh trí cách, tưởng biến thể thù”, nghĩa là: Tình nổi dậy thì trí huệ bị che lấp, tư tưởng biến đổi thì thân thể cũng theo đó mà biến dạng, khiến công án sẵn sàng, của báu gia truyền chẳng được thọ dụng. Tình sanh tướng biến là biệt danh của tâm trộm cắp mà tôi vừa nói.

Muốn bất cứ lúc nào tình chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tưởng chẳng biến, thì cần phải thật đem việc lớn sanh tử để ở trong lòng, lấp bít ý căn, tình vừa muốn sanh thì bị nó ngăn, tưởng toan muốn biến liền bị nó đoạt. Ông nếu chẳng vì việc lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết cầu ngộ chứng, mà chỉ là một bề đè nén cho tình tưởng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người đã chết mà muốn thở ra hít vô để làm gì?

Người xưa có nói: “Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết”. Lời này thật thông suốt cả ba đời, là cội gốc lớn của sự học đạo. Ví như chẳng lấy sanh tử vô thường làm trách nhiệm nặng nề của mình, nằng nặc muốn hiểu thiền hiểu đạo mà tham cứu việc này, thì giống như bảo người tịch cốc (những người suốt đời không biết đói, không cần ăn), đi cấy trồng mà chẳng biết đó chẳng phải là việc của họ (vì họ không cần ăn thì cấy cày để làm gì?).

Đáp: Nếu mình lấy ý thức để tìm hiểu giáo lý cao siêu của Phật Thích Ca, cũng là tâm trộm cắp, còn gọi là sở tri ngu.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị đoạn văn kế tiếp của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng:

Bậc tiền bối ba mươi năm, năm mươi năm chí càng bền, niệm càng thiết, hạnh càng siêng và chẳng chịu có chút gián đoạn, chẳng phải do thầy bạn cảnh sách, tòng lâm khuyến khích, ngôn thuyết chỉ bày, phương tiện khuyến tấn mà được như vậy. Mà bởi cội gốc của các Ngài chỉ là một cái nguyện thống niệm sanh tử chưa giải quyết xong. Giả sử đời này chẳng xong thì đời nào mới xong ? Niệm tấn đạo nếu tự chẳng chân thật thiết tha, dẫu Phật Tổ có thần dị đổi phàm thành Thánh, khiến A La Hán khởi tham sân si, tuy cố làm đó, quyết chẳng thể lâu được.

Có người vì muốn hiểu đạo mà học đạo, mà không chiếu phá được cảnh phù huyễn nổi trước mắt, lại bị cảnh duyên đó làm cho vọng niệm khởi lên chẳng dừng. Vọng niệm đã khởi thì dầu sức học đạo như núi gò, sẽ thấy có ngày bị vọng niệm làm hại. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Cuồng tâm chưa ngưng nghĩ, ngưng nghĩ tức Bồ Đề”. Cái gì là cuồng tâm ? Hễ ngoài việc thống niệm sanh tử, đề câu thoại đầu sở tham ra, dù có làm trăm ngàn điều siêu việt thế gian, đều chẳng khỏi chê là cuồng tâm.

Tổ Thiếu Lâm nói: “Ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, t âm như tường vách, có thể vào đạo”. Nhưng vào đạo gác lại chẳng hỏi. Tâm này có từng như tường vách hay chưa ? Nếu chưa mà muốn mong nhập đạo, đó là điều chẳng tự xét.

Tham thiền cả một đời chẳng ngộ, học đạo cả một đời chẳng rõ, chỉ cần chẳng dễ dàng buông bỏ cái chánh niệm này, để tham để học thì chắc chắn có ngày đến chỗ cùng tột. Nếu bỏ chánh niệm này, vọng đem thức tình xuyên tạc lấy lời người khác làm kiến giải của mình, dẫu hiểu hết cổ kim, tọa đoạn Phật Tổ, cũng đều là dối trình cuồng kiến, tự mang tội lỗi, chẳng phải là điều của người chân thật học đạo làm.

Đáp: Nói nhiều cũng giống như ý trên, người ta chỉ biết có chánh niệm, rồi bỏ tà niệm giữ chánh niệm ! Ngài Trung Phong nói: “Tà niệm là nhiễm, chánh niệm là tịnh, mà nổi lên niệm nhiễm là tâm trộm cắp, nổi lên niệm tịnh cũng là tâm trộm cắp”. Người ta bỏ tà niệm còn khó, huống là bỏ chánh niệm ! Cho nên, khỏi cần bỏ, vì không có cái gì để bỏ, mà bỏ cái gì ? Chỉ cần có lòng tin tự tâm, như Ngài Long thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ cần tin vô sở hữu mà mình đang dùng. Tất cả đều ở trong vô sở hữu này, như mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai ... đều ở trong vô sở hữu này.

Nguồn gốc của Phật pháp là tâm,
 Nguồn gốc của vũ trụ cũng là tâm. 

Người học Phật pháp phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm của mình chứ chẳng phải ai khác.

Theo thực tế mà nói, Phật giáo là giáo dục, truyền dạy Tâm Pháp dẫn đến giác ngộ cuối cùng, nhưng hiện nay nhiều người hiểu lầm cho là một tôn giáo mê tín. Nói giáo dục là bao gồm vũ trụ vạn vật, chẳng có một sự vật nào thiếu sót gọi là vạn pháp duy tâm. Vì nguồn gốc của vạn sự vạn vật là tâm linh, nên Phật Thích Ca nói tất cả duy tâm tạo.

Vậy tâm là thế nào? Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng ai biết.

Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là Ngài Long Thọ dùng "Hư không vô sở hữu" để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể số lượng, do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả. Phật pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là Tánh Không. Không này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời, cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều phải nhờ cái "Vô Sở Hữu" này dung nạp và ứng dụng.

Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói năng, tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái "vô sở hữu" này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tánh thành Phật.

Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi. Cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao (người và thế giới chiêm bao) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Bản thể của tâm vô sở hữu tức là trống rỗng, vì trống rỗng nên gọi là Tánh Không, vì tánh không nên cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì chẳng có khứ lai nên gọi là Như Lai, nghĩa là đúng như bản lai; cùng khắp thời gian thì không có gián đoạn sanh diệt nên gọi là Niết Bàn.

Vì trống rỗng vô sở hữu chẳng có chỗ để trụ nên gọi là Vô Sở Trụ; vì trống rỗng vô trụ thì chẳng thể trói buộc nên gọi là Giải Thoát. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, tâm của chúng sanh đều có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật Tánh, cũng gọi là Bồ Đề, bồ đề nghĩa là giác ngộ. Nói tóm lại, danh từ thì có muôn ngàn sai biệt khác nhau nhưng nghĩa thì chẳng khác, chỉ là hiển bày thể dụng của tâm mà thôi.

Vì tâm vô sở hữu thì chẳng thể kiến lập, nên Phật nói là Vô Thủy, chẳng có bắt đầu, cũng gọi là vô sanh. Vì có sanh thì phải có bắt đầu. Vì vô sanh thì không thể kiến lập, nếu có thể kiến lập ắt có sự sanh khởi và bắt đầu, cho nên người chứng quả gọi là Ngộ Pháp Vô Sanh, cũng gọi là Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nói một cách khác, tất cả kinh Phật đều dùng sự hiểu biết của chúng sanh để chứng tỏ tất cả sự vật qua ý thức của bộ não nhận biết đều chẳng phải thật, nên nói Vạn Pháp Duy Tâm, Tất Cả Do Tâm Tạo. Vì tâm có thể tạo là có kiến lập, tức là chẳng thật vậy.

Cho nên, Phật nói những hiểu biết trước mắt của mình đều là sai lầm, không đúng với thật tế. Vì vậy mới gọi là tâm trộm cắp, làm chướng ngại cái thật tế. Thật tế là bản thể của Phật tánh, dẹp hết tất cả lý cao siêu của tâm trộm cắp thì bản thể Phật tánh tự động hiện lên. Nay tuy Bản thể Phật tánh chưa hiện lên, nhưng mình cũng đang dùng. 

Hỏi: Ngày xưa các Ngài khó hiểu biết, vì không có phương tiện nghe nhìn; còn ngày nay phương tiện nghe nhìn có nhiều, nên người tham học khỏi đi hành cước. Đáng lẽ người nay phải ngộ nhiều hơn người xưa, tại sao ngược lại?

Đáp: Nghe hiểu nhiều chừng nào thì sự chứng quả ít chừng nấy. Nghiên cứu lý để tìm hiểu là chuyện thế gian, muốn tu pháp xuất thế gian thì phải lìa lý lìa hiểu. Cho nên, hiểu nhiều thì phải xa sự chứng ngộ.

Hỏi: Ngày xưa, Ngài Hám Sơn trong khi tu có Ngài Cao Phong giúp đỡ, ngày nay, chúng con cần phải học hỏi tìm hiểu, vậy có thể chứng ngộ không?

Đáp: Ngày nay người ta tôn trọng khoa học và triết học, nhưng khoa học và triết học hiện đại là phải cứu lý tìm hiểu. Phật pháp phải ngược lại lìa lý lìa tìm hiểu, Tiểu thừa chấm dứt lục căn, không cho lục căn tìm hiểu. Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu thừa là ngưng hoạt động của tâm, Trung thừa và Đại thừa cuối cùng cũng đình chỉ hoạt động của tâm. Đình chỉ tâm là mục đích đến chỗ kiến tánh, đến lúc kiến tánh thì không cần đình chỉ nữa. Vì bản thể tự tánh luôn luôn khắp không gian, khắp thời gian, không bao giờ ngưng.

Hỏi: Cách hành trì của Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa như thế nào?

Đáp: Đại thừa gồm Tối thượng thừa, Tiểu thừa gồm  Trung thừa. Có 5 thứ khác biệt:

1. Điểm xuất Phát chẳng đồng:

a. Tiểu thừa: Bắt nguồn từ nhân sinh quan đắm khổ, nghiệp cảm duyên khởi, nhàm chán phiền não mà cầu nơi thanh tịnh.

b. Đại thừa: Từ nhân sinh quan từ bi, chân như tỏa ra, lấy hóa tha tự tại làm chí nghiệp.

2. Hành vi chẳng đồng:

a. Tiểu thừa: Tự lợi tự độ, chỉ được giải thoát theo tiêu cực, tức là lấy đoạn dứt phiền não làm Niết bàn và mục tiêu cuối cùng.

b. Đại thừa: Tự độ độ tha, lấy hoạt động tích cực làm hành vi, đắc đại tự tại làm tư tưởng chung cuộc.

3. Cảnh giới chung đồng:

a.Tiều thừa: Ngừng nơi hiện tượng giới.

b. Đại thừa: Vào nơi thực tại giới.

4. Phương pháp chẳng đồng:

a. Tiểu thừa: Dứt lục căn, đoạn nhất niệm vô minh, vào nơi đoạn diệt, chủ nghĩa cấm dục.

b. Đại thừa: Phá vô thỉ vô minh, kiến Phật tánh, chủ nghĩa tự tại, chủ nghĩa thực tại (tức Chân Như), sắc tâm và pháp đều tồn tại vĩnh viễn.

5. Lý luận chẳng đồng:

a. Tiểu thừa: Tầm khảo sát ngưng nơi hiện tượng và cho rằng chủ khách thực tế tồn tại, là nhị nguyên luận. Ngoài ra dùng chủ nghĩa cảm giác phủ định những thực tại ngoài cảm giác.

b. Đại thừa: Siêu việt phạm vi nhận thức của bộ não, sự cùng tột của thực tại với hiện tượng giới chẳng khác, chủ khách như một, chân vọng hợp nhất, là nhất nguyên luận, là thực tại luận siêu việt Hình Nhi Thượng.

Triết học phương Tây chỉ có hai giai đoạn: Ngã chấp và pháp chấp, đều nằm trong phạm vi nhất niệm vô minh, tức tư duy và lý niệm. Nhưng tư duy và lý niệm đều là hóa thân của nhất niệm vô minh, cũng là tác dụng của bộ não.

Mục đích triết học phương Tây là nghiên cứu lý luận để tìm hiểu, nên chẳng chịu rời bỏ nhất niệm vô minh. Bởi vì nếu tiến vào phạm vi của vô thỉ vô minh thì cảm giác trống rỗng chẳng có lý luận để truy cứu, cũng chẳng có gì để tìm hiểu, hoàn toàn trái ngược với mục đích của họ. 

Cho nên, xưa nay các nhà triết học phương Tây chưa ai từng đi vào cảnh giới vô thỉ vô minh, hễ chưa vào cảnh giới vô thỉ vô minh thì chẳng thể đột phá cái chấp không, cũng chẳng vào được tuyệt đối. Phá được cái chấp không là kiến tánh, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn.

Mục đích của nhà triết học phương Tây là truy lý cầu tri, còn mục đích tu trì Phật pháp là liễu thoát sanh tử; triết học phương Tây chú trọng lý luận, Phật pháp thì chú trọng thực tiễn, tức là từ nhất niệm vô minh tiến thẳng vào tuyệt đối vậy.

Hỏi: Lý do gì sự ngộ của Thiền tông không cần kinh điển?

Đáp: Kinh chỉ là trợ duyên, công phu đến mức thì gặp cái gì cũng ngộ, cũng như có người gặp con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở thì ngộ, có người đi bị vấp té lại ngộ, có người bị bạt tai ngộ, có người nghe hát ngộ, có người đi ngang chỗ bán thịt, nghe nói “bán cho tôi một cân thịt nạc”, người bán chặt mạnh con dao xuống bàn và nói lớn “chỗ nào không phải là thịt nạc”, người ấy liền ngộ. Đâu phải chỉ xem kinh mới ngộ? Cũng có người xem kinh mà ngộ.

Như có người tham kiến Mã Tổ, Mã Tổ nói: Hãy đảnh lễ đi. Người đó mới lạy xuống thì Mã Tổ đá một cái ngã xuống đất liền ngộ. Nghe kinh ngộ chỉ một phần ít, cái ngộ là do nghi tình đến mức bùng nổ, lúc đó muốn không ngộ cũng không được.

Hỏi: Các giới luật có ảnh hưởng đến tu Tổ Sư thiền không?

Đáp: Tổ Sư thiền cũng phải giữ giới. A Nan hỏi Phật:

- Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chúng con lấy ai làm thầy?

Phật nói: Lấy giới luật làm thầy.

Hỏi: Có phải Thiền tông không tin vào kinh điển không?

Đáp: Sao nói là Thiền tông không tin kinh điển ! Thiền tông tự nhiên ăn khớp với kinh điển, chứ không phải không tin kinh điển, chỉ là không chấp kinh điển.

Hỏi: Xin Thầy nói rõ: Không tin và không chấp?

Đáp: Nếu giải thích triệt để thì Phật nói: “Phàm có lời nói đều chẳng có nghĩa thật”. Bây giờ nói không chấp là đã chấp rồi, tại có chấp nên mới nói không chấp, vì còn nằm trong tương đối. Nếu chấp vào một bên, là nằm trong một của 5 thứ ác kiến:

Chấp nhất định có Phật cũng lọt vào biên kiến, chấp nhất định không có Phật cũng lọt vào biên kiến. Cho nên nói: “Lấy vô Trụ làm gốc, tức là không trụ bên nào, có trụ là không được.

Hỏi: Sư phụ đã giải thích cho mọi người thì kiến thức của thầy đã cản trở hay giúp thầy trên đường tu tập?

Đáp: Cản trở trên đường tu tập. Tôi là người hoằng dương Tổ Sư thiền ở Việt Nam, cũng là người đầu tiên đả thiền thất ở Việt Nam. Mọi người đã quen biết Giáo môn và Tịnh Độ, còn đối với Tổ Sư thiền thì người ta lại khó tin, nên tôi phải biết, như thế họ mới tin tôi. Rồi từ từ người tham Tổ Sư thiền ngày càng đông. Nếu hỏi tôi không trả lời được thì có ai chịu học Tổ Sư thiền đâu !

Hỏi: Ngài Nam Tuyền chém mèo có coi là lậu tận giới không?

Đáp: Người ta cứ đùng tập khí bộ óc lâu đời để suy nghĩ. Như Phật nói trong kinh Kim Cang: “Chúng sinh tức phi chúng sinh, thị danh chúng sinh”, chúng sinh là giả danh, như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô lão tử diệc, vô lão tử tận”, nếu không có sanh tử, làm sao có việc chém chết ?

Một Thiền sư đưa cây phất trần lên hỏi: Cây phất trần với việc Nam Tuyền chém mèo có khác hay không khác ? Rồi tự mình làm bài kệ, câu thứ tư là: “Phất trần với chém mèo đâu có khác !”. Vì mình đuổi theo cảnh hay lời nói thì bị cảnh lôi kéo.

-Có người nói: Lục Tổ ăn rau bên cạnh thịt thì tôi cũng ăn được, vậy đâu cần phải ăn chay ?

Người ngộ đạo ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, thì không có nhân quả, vì tâm không có tạo. Người ngộ đã nhảy ra ngoài chiêm bao, không dính líu chiêm bao. Tổ nói: “Tình sanh trí cách”, có người chưa kiến tánh nói “tôi chẳng nổi tình cảm gì hết, chẳng dính dáng đến tình cảm”, nhưng rồi cũng bị người kiến tánh chê.

“Chẳng dính đáng đến tình cảm” vẫn còn ở trong nghĩa ba câu của Bá Trượng, tức còn có tri giải. Các vị tin pháp môn Tổ Sư thiền và tin tự tâm được 100%, tức Phật tánh của mình và Phật tánh của Phật Thích Ca chẳng khác biệt chút nào cả. Như vậy thực hành rất dễ, rất đơn giản, chỉ là giữ được nghi tình thì tất cả sẽ tự động giải quyết xong.

Nhưng bây giờ các nhà sách bán nhiều sách thiền, cũng nói Tổ Sư thiền và giải thích nghĩa lý Tổ Sư thiền; giải thích công án thì lọt vào ý thức phân biệt, nên không bao giờ ngộ.

Mục đích Tổ Sư thiền là muốn chấm dứt ý thức phân biệt, nên sát na lìa ý thức liền kiến tánh. Còn bây giờ không lìa ý thức, mà lại dùng ý thức để giải thích phân biệt để tìm hiểu đáp án. Cho nên, giải công án là sai lầm và nghịch với Tổ Sư thiền, vì vậy chư Tổ nói là phỉ báng Tổ, cũng là phỉ báng pháp.

Hỏi: Xã hội ngày nay khoa học tiến bộ, con người không được rảnh rang như người xưa, nên không để ý sự tu, nhất là tu Tổ Sư thiền rất khó. vậy có phải không?

Đáp: Do hiểu theo người thế gian, như nhà triết học, nhà khoa học ... thì sự tu của họ lại khó. Vì cuộc sống hằng ngày đều phải dùng bộ óc để nghiên cứu triết học hay nghiên cứu khoa học, bất cứ nghiên cứu cái gì đều nhờ bộ óc. Nếu bây giờ chấm dứt hoạt động của bộ óc thì người ta phản đối, họ cho “đồ khùng”. Phải rồi, vì theo tư tưởng thế gian là vậy.

Cho nên, thiền giải đáp công án ở Nhật Bản dễ truyền khắp thế giới. Hiện nay người Trung Quốc cũng đi học thiền giải công án, rồi về dạy cho người Hoa. Chùa Cao Mân là Tổ đình của Thiền Tông, nhưng cũng lọt vào kiến giải. Ngày xưa Ngài Lai Quả không cho người ta giảng công án, khi tôi ở đó thấy đêm nào cũng có vị Trưởng lão giảng công án.

Hỏi: Những pháp thiền của các tôn giáo khác là để ngưng hoạt động của bộ óc hay để im lặng, vậy có khác với cách tu của Tổ Sư thiền không?

Đáp: Các thiền của tôn giáo khác là mục đích bỏ nhiễm duyên lấy cái tịnh duyên cho là ngộ. Tịnh duyên đối với nhiễm duyên thì tốt, còn đối với bản thể Phật tánh là chướng ngại. Bởi vì đối với nhiễm nên mới nói tịnh, còn nằm trong tương đối, tức những thứ ấy có thể dùng bộ óc để giải thích được.

Tổ Sư thiền không thể giải thích, tại bộ óc không thể tiếp xúc được phải ngộ mới biết, cái biết của Phật tánh gọi là Bát Nhã. Hễ ngộ là Phật tánh hiện lên, chứ không phải có năng ngộ sở ngộ. Nếu có năng ngộ sở ngộ thì không được, vì còn có tứ tướng:

Tứ Tướng trong Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang và Kinh Lăng Già (Là bốn thứ cảnh giới mà chúng ta lầm nhận nơi tự tâm) có hai thứ: 
 
1/ Mê thức tứ tướng của phàm phu: 

- Chấp thân ngũ uẩn là ta, gọi là ngã tướng. 
- Bỏ ngã tướng chấp vào toàn nhân loại, gọi là nhân tướng. 
- Bỏ nhân loại chấp toàn chúng sanh, gọi là chúng sanh tướng. 
- Chấp có thời gian thật, gọi là thọ giả tướng. 
 
2/ Mê trí tứ tướng của bậc thánh: 

- Bậc thánh biết có sở chứng, dù chứng đến bậc cao nhưng đều thuộc ngã tướng. 
- Tiến thêm một bước, ngộ biết chẳng do ta chứng, siêu việt tất cả chứng nhưng có năng ngộ, gọi là nhân tướng. 
- Tiến thêm một bước, rõ biết năng chứng năng ngộ là ngã tướng nhân tướng, nếu đến được chỗ ngã tướng nhân tướng chẳng thể đến, chỉ có tâm liễu tri, gọi là chúng sanh tướng. 

- Lại tiến thêm một bước, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ có một giác thể trong sạch, gọi là cứu cánh giác, tất cả tịch diệt, cũng gọi là Niết bàn. Hễ còn trụ nơi Niết bàn tức mạng căn chưa dứt, gọi là thọ giả tướng. 

-Nếu chưa thấu suốt tứ tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả đều là ảo tưởng, chẳng có mà hiện hữu, dù nói khiến được tâm chẳng chấp trước, ấy là cố gắng ức chế, cũng là đối với Có mà nói Không. 

-Nếu chưa kiến tánh triệt để thì chẳng những phí sức dụng công, mà gốc rễ (tánh chấp trước) vẫn còn; cho dù không ngừng ức chế cũng là pháp chấp, Kinh Lăng Nghiêm nói: "Dù trong tâm giữ u nhàn, vẫn là bóng phân biệt của pháp trần" vậy. Bệnh tại một chữ "Thủ" (giữ), hễ có thủ thì có chấp. Tại sao? Do sự thấy chưa triệt để vậy. 

-Nếu thấu triệt bốn tướng ngã, nhân... đều là phi tướng thì rõ biết tất cả tướng Có tức là phi hữu; có tức phi hữu nên thấy như chưa thấy, dù vạn tượng sum la mà trong lòng khoan thái, nên chẳng đợi ức chế mà tứ tướng ấy tự nhiên trống rỗng, đâu cần giữ ư! Vô sở thủ thì vô sở chấp, nên chẳng bị trệ ngại bởi danh tướng các pháp vậy. 

Hỏi: Sư phụ nói những thức nào khi thân chết nó vẫn còn tồn tại?

Đáp: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức đều tồn tại vĩnh viễn, không phải các căn. Tức Tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh xúc, tánh nếm, tánh biết tồn tại vĩnh viễn không mất, cùng khắp không gian và thời gian, nên không có đi và ở. Nếu có đi đâu thì chẳng phải cùng khắp.

Hỏi: Thần thức đi đầu thai là sao?

Đáp: Thần thức đi đầu thai là chưa nhảy ra ngoài chiêm bao, từ chiêm bao này qua chiêm bao khác chưa thức tỉnh phải kiến tánh rồi mới thức tỉnh. Còn chưa kiến tánh thì thức thứ bảy cứ ôm A-lại-da thức cho là ta, đã có ta rồi làm sao cùng khắp được? Nhưng bản thể cùng khắp nên năng lượng của Phật tánh cùng khắp. Bây giờ máy vi tính có thể chứng tỏ cùng khắp, nhưng nhà khoa học không chịu tin. Tất cả chủng tử thiện, ác, vô ký đều ở trong A-lại-da thức mang theo.

Hỏi: Thiền sư Đạo Nguyên nói với thầy của ngài là Nghĩa Tịnh: “Con nay buông xả được thân tâm”, hai thầy trò đối đáp nhau, cuối cùng Nghĩa Tịnh ấn chứng cho Đạo Nguyên được kiến tánh. Vậy như thế nào?

Đáp: Ngài Đại Huệ khiến cho những người đó được kiến tánh triệt để, nhưng trước khi chưa gặp Đại Huệ, họ tự cho mình đã kiến tánh, rồi ra hoằng pháp, cũng được nhiều người ấn chứng. Ban đầu họ không phục Đại Huệ, sau này mới phục, nên được kiến tánh.

Quá trình ngộ của Đại Huệ đến mấy lần, cách ngộ rất khó khăn. Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng cho Đại Huệvà nói:

“Ông ngộ đến mức này cũng hiếm có, nhưng chưa rốt ráo”.

Ngài phải qua mấy lần rồi mới ngộ triệt để. Khi chưa qua những giai đoạn đó, cũng có nhiều Thiền sư ấn chứng Ngài đã kiến tánh, nhưng Ngài vẫn còn có cái nghi.

Ngài nghĩ: “Nếu gặp Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng mình kiến tánh giống như các Thiền sư kia, thì sẽ về viết bài: “Vô Thiền Luận”.

Viên Ngộ nói với Đại Huệ rằng: ông nói cũng được, làm bài tụng cũng được, nhưng ông còn thiếu một tiếng ồ ! 

Lúc ấy, Đại Huệ mới theo Viên Ngộ, như ban đầu nghe: “Gió mát từ phương nam” cho là ngộ, rồi gặp Viên Ngộ ấn chứng Ngài được ngộ, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo.

Ngài trải qua mấy lần ngộ cực khổ, Viên Ngộ nói: “Khi vào phòng của tôi thì được, nhưng ra thì không được; lúc ông ngồi giải đáp cho người ta được, nhưng đứng dậy thì không được”.

Tại sao? Vì chưa ngộ triệt để. Lúc ngộ triệt để rồi, Ngài nói:

-Nếu có thật ngộ cũng không được lấy sở ngộ của mình để dạy người. Ngộ rồi phải rõ đại pháp, mới có sức đại cơ đại đụng để khiến cho người khác ngộ, còn lấy sở ngộ của mình để dạy người, là thiền ngâm nước chết.

Hỏi: Tại sao học Phật pháp có thể thành tà đạo?

Đáp: Trên thực tế, người hiểu giáo lý nhiều dễ trở thành tà đạo, vì chấp thật sự hiểu biết của mình, dùng sự hiểu biết của bộ não kiến lập tri kiến, mà chẳng biết sự hiểu biết đó sai lầm.

Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”. Họ chẳng những lọt vào tà đạo, lại còn hoằng dương tà đạo, cho lời nói của Phật là Phật pháp của mình để dạy người, tạo tội địa ngục mà chẳng tự biết, cứ tự cho là thuyết pháp theo lời Phật dạy. Nên Trí Giả đại sư nói là: “Học Phật pháp thành tà đạo, sau này tiêu diệt Phật pháp là bọn người này”. Tức là chỉ có con cháu của nhà phật mới tiêu diệt Phật giáo, chứ chẳng phải tôn giáo khác. Đối với hạng người đó, chẳng cách nào vãn hồi, đành phải chịu thôi.

Hỏi : Những người như thế, sau một thời gian tham thiền, có thể quầy đầu lại không?

Đáp: Có người tham thiền càng nhiều ngã chấp càng lớn, vì không phá ngã chấp, chỉ tin theo sự hiểu biết của bộ não, cho hiểu biết nhiều là hay, chẳng biết đó là mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, nên Phật dạy chúng ta phải dẹp bỏ những hiểu biết đó.

Hỏi : Sư phụ nói là chuyển thức thành trí thì năng lượng lìa vật chất, nhưng bản lai vô nhất vật, thì lấy cái gì lìa cái gì?

Đáp: Hãy trở về xem lại kinh Lăng Già, vì thầy chưa hiểu, vẫn còn chấp theo lời nói của Phật cho là Phật pháp của mình, mà chẳng biết tất cả lời nói của chư Phật chỉ là phương tiện, chẳng phải thật, không được chấp theo. Nên Phật nói xong liền phủ nhận, vì hễ nói được là tương đối, là nhị, còn Phật pháp là bất nhị.

Hỏi: Thông thường, người đệ tử nhìn vào sự tu hành của người thầy có chứng đắc hay không, ví dụ: Con là người tu hành, sau này con chết rồi, đem đi thiêu, nếu có xá lợi thì mọi người nói là con đắc đạo; nếu không thì mọi người cho là con không có tu. Quan niệm của Thầy ra sao?

Đáp: Tôi chẳng có cái đó, chữ Phật nghĩa là giác ngộ, nếu tu đến giác ngộ thì biết không có sanh tử, tức liễu thoát sanh tử. Tại có sanh tử mới có xá lợi của xương, sinh tử đã không thì những cái kia cũng là thừa.

Tâm Kinh nói “Vô lão tử diệc vô lão tử tận”, bây giờ có xá lợi đâu có ích lợi gì! Những thứ đó do chấp sanh tử mới có, người không chấp sanh tử thì có hay không chẳng vấn đề, có cũng được, không có cũng được, tất cả hiện tượng mình thấy đều là vọng tưởng, do vọng tâm tạo. Trong kinh Lăng Nghiêm giải thích rất kỹ.

Hỏi: Khi xưa Đức Phật sau khi trà tỳ, được xá lợi vô vàn, để phân chia khắp nơi. Tại sao thời nay chẳng thể noi theo gương đó?

Đáp: Tất cả đều là vọng tưởng, ấy là lời của Phật nói. Nay chúng ta thấy sum la vạn tượng, nhà cửa cây cối đều do tập khí vọng tưởng của mình, với cộng nghiệp của tất cả chúng sanh, nên cũng thấy như thế, nhưng trong cộng nghiệp có biệt nghiệp của cá nhân.

Sự thật thì chẳng phải như thế: Nếu ở trong thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng thì gọi là pháp thế gian, hễ không sanh ra trước tưởng, thì gọi là pháp xuất thế gian, gọi là Phật pháp. Đó là trong kinh Đại Niết Bàn.

Còn ở trong Yếu chỉ Trung Quán Luận thì tất cả đều phá, Như Lai cũng phá, Niết bàn cũng phá ... phàm do bộ não nhận biết được, do văn tự lời nói diễn tả được, có sự tương đối đều phải phá. Vì hễ dùng lời nói, phải tương đối mới nói ra được, văn tự là thay cho lời nói, cũng vậy. Cho nên, kinh Lăng Già nói “Pháp phải lìa văn tự”, vì văn tự chẳng thể nói. Nhưng người ta không hiểu, tưởng là có thể nói, có thể diễn tả, có thể cho là đúng hay sai, ấy là lọt vào biên kiến mà tự chẳng hay biết.

Hỏi: Vậy thế nào là hành đúng theo chánh pháp?

Đáp: Không chấp thật, lại phá chấp thật là chánh; không chấp ngã, lại phá chấp ngã là chánh. 

Hỏi: Tại sao tất cả các kinh đều bắt đầu từ hai chữ “Như thị”?

Đáp: Hai chữ này nghĩa là “đúng như vậy”. Vì thời Phật thuyết pháp không ai ghi chép, sau khi Phật nhập diệt đệ tử của Phật tập họp lại, mời Thị giả của Đức Phật là A Nan ghi nhớ và đọc lại, nên cuốn kinh nào cũng khởi đầu bằng “Tôi nghe như vầy”, nếu năm trăm vị A la hán đều cho là đúng thì ghi nhận.

Hỏi: Có phải hễ có khởi niệm là lọt vào tương đối?

Đáp: Không phải. Nếu chỉ có thế l ưu bố tưởng, không sanh ra trước tưởng thì không có tương đối. Cũng như bậc thánh nói “có” cũng được, nói “không” cũng được, vì không sanh ra trước tưởng. Nay chúng ta dù hiểu được nhưng làm không được, vì còn ngã chấp chưa dứt sạch, ví như chưa ra khỏi luân hồi, dùng tri kiến muốn tìm Viên giác thì Viên giác ấy cũng thành luân hồi.

Hỏi: Một số các thầy giảng về câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”, rằng sắc chẳng tự có, mà từ nhân duyên, từ cái không này nhờ duyên mà ra, nên nói “Sắc bất dị không”, đến chừng duyên hết rồi, như tứ đại tan rã, thì gọi là “Không bất dị sắc”. Giải thích như vậy có đúng không?

Đáp: Do là vì chấp nhân duyên cho là thật. Trong quyển Lăng Nghiêm Tông Thông có đoạn phá chấp nhân duyên bởi bài kệ của ngài Long Thọ :

Các pháp chẳng tự sanh,
Cũng chẳng từ tha sanh.
Chẳng cộng chẳng vô nhân,
Cho nên nói vô sanh. 

Vì nó chẳng phải là tự sanh, cũng chẳng phải tha sanh, hễ nói tha cũng là tự. Cũng chẳng phải tự và tha cộng sanh, chẳng phải không có nhân sanh, ví như cây lý sánh ra cây lý, cây đào sanh cây đào, chứ chẳng phải vô nhân mà sanh được. Đủ thứ nghĩa lý đều chẳng thành lập, nên nói vô sanh.

Tại sao nói là các pháp chẳng tự sanh ? Vì phải nhờ nhân duyên mới sanh khởi. Còn nói chẳng từ tha sanh, vì mỗi duyên chẳng tự tánh. Nói “chẳng cộng sanh” vì tự với tha còn không có thì lấy gì để cộng ? Chẳng vô nhân sanh: Như bây giờ muốn giác ngộ thì phải tu mới giác ngộ được, chứ đâu phải mình không tu mà được giác ngộ!

Từ ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), lục nhập (nhãn, như tỷ, thiệt, thân, ý), thập nhị xứ (lục căn đối với lục trần), thập bát giới (lục căn đối với lục trần sanh ra lục thức), cho đến thất đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) đều muốn giảng rõ ý này.

Nếu ngộ biết vốn chẳng sanh khởi, thì giống như con mắt sáng t ỏ, vốn là không có hoa đốm trong hư không. Nếu dụi con mắt, thình lình bị bệnh thì thấy hư không có hoa đốm, như nay thấy đủ thứ, đều là hoa đốm. Ấy là do con mắt mỏi mệt mới thấy. Tức là bỏ cái thật mà lại thấy cái vọng nên thấy hoa đốm. Hoa đốm chẳng thật, chỉ là ảo tượng, đâu phải từ chỗ nào đến ! Vì con mắt bệnh mới thấy.

Trên thực tế, nếu con mắt chẳng bệnh thì thấy hư không sáng tỏ chẳng hoa đốm, nên biết chẳng phải tự sanh, chẳng phải từ nhân duyên sanh.

Sắc ấm như thế thì thọ, tưởng, hành, thức đều như thế; ngũ uẩn đã như thế thì lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới đều như thế.

Hỏi: Kinh nghiệm mình hiểu và mình từ hiểu có khác nhau không?

Đáp: Hễ tìm hiểu là càng tìm càng xa. Có công án của Tổ Pháp Nhãn:
Thiền tông có 5 phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng. Tổ đầu tiên của tông Pháp Nhãn là Thiền sư Văn Ích, sau khi được thầy ấn chứng là ngộ đạo, vì là người cao nhất trong các huynh đệ, nên ngài dẫn đầu đi tham học.

Ngày xưa người kiến tánh rồi vẫn còn đi tham học. Khi đi ngang chỗ Thiền hội của Thiền sư Quế Sâm, gặp bão tuyết chẳng thể đi tiếp, nên ghé lại nơi này để tránh tuyết. Lúc trò chuyện với Thiền sư Quế Sâm, nói đến “trời đất với ta cùng một nguồn gốc” của Triệu Luận, Quế Sâm hỏi:

- Trời đất với Thượng tọa đồng hay khác?

Văn Ích đáp: Đồng.

Quế Sâm không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay (ý nói là nhị. Vì chọn tâm bất nhị, đã ngộ rồi tại sao còn nhị pháp ?)

Các người đi cùng thấy vậy thì trả lời: Khác.

Quế Sâm vẫn không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay.

Theo sự hiểu biết của mọi người đều cho “đồng” là một, khác mới là nhị. Mà chẳng biết đồng cũng là nhị, vì có hai vật trở lên mới có thể so sánh là đồng hay dị.

Quế Sâm biết những người này chưa kiến tánh, nhưng cũng công phu cũng sắp chín mùi. Khi tuyết đã dừng, Văn Ích và những người đi cùng từ giã đi tiếp, Thiền sư đưa ra ngoài cửa gặp một tảng đá.

Quế Sâm hỏi: Bình thường Thượng tọa cho là vạn pháp duy tâm. Vậy tảng đá này ở trong tâm hay ở ngoài tâm ?

Văn Ích đáp: Ở trong tâm.

Quế Sâm cười: sao Thượng tọa đi hành cước lại để tảng đá trong tâm vậy ?

Văn Ích đỏ bừng mặt, không đi tiếp nữa, trở vào xin ở lại. Mỗi ngày trình kiến giải đều bị Quế Sâm lắc đầu. Trải qua một tháng, Văn Ích nói:
Nay con tất cả đều sạch, chẳng còn lý gì để trình (lúc đó công phu đã chín muồi).

Quế Sâm nói: Nếu nói Phật pháp thì tất cả đều sẵn sàng.

Văn Ích liền ngộ triệt để, và nối pháp của Quế Sâm, trở thành tông sư của phái Pháp Nhãn tông.

Thời nay, người tu học hay tìm hiểu, nhiều người xem Phật pháp như một loại văn hóa để tìm hiểu, lại giải thích từng danh từ, từng chữ, nên càng tìm càng xa.

Hỏi: Nếu không giải thích thì làm sao hiểu?

Đáp: Là giải thích cái lý, chứ chẳng phải giải thích theo chữ. Tại pháp lìa văn tự, phàm có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật, nên phải phù hợp với ý của Phật. Nếu y văn giải nghĩa thì là tam thế Phật oan.

Hỏi: Tác dụng đọc 50 thứ ma ngũ ấm để là gì?

Đáp: Để nhắc nhở, để ý mình có lọt vào những cảnh giới đó không ? Nếu thấy mình có chứng đắc thì rất nguy hiểm, chớ tưởng là tốt. Phật dặn A Nan luôn nhắc nhờ người đời sau: “Tu hành không được để lọt vào 50 thứ ma ngũ ấm”.

Hỏi: Sư phụ nói người kiến tánh rồi dễ dứt tập khí hơn, vậy còn người giải ngộ thì sao ? Có dứt được tập khí không?

Đáp: Không, nó còn có thể tăng thêm tập khí nữa, vì ôm chấp cái ngộ.

Hỏi: Thế nào là giải ngộ ? Thế nào là chứng ngộ?

Đáp: Giải ngộ là cái nhận biết của bộ não, còn chứng ngộ là dẹp hết cái biết của bộ não, lúc đó chơn tâm hiện lên, chẳng phải sự hiểu hay không hiểu.

Hỏi: Trong tháng vừa rồi xảy ra ba trận động đất, vậy có phải do nhân quả của loài người không?

Đáp: Phải. Đó cũng là trong kinh nói về cộng nghiệp và biệt nghiệp, trong cộng nghiệp cũng riêng có biệt nghiệp, ví như trong trận động đất đó có người bị chết, có người thì được sống sót, ấy là biệt nghiệp vậy.

Hỏi: Làm sao hết được nhân quả, chấm dứt cái biết?

Đáp: Ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì hết. Trên xã hội ngày nay là người nào hiểu biết nhiều chừng nào cao chừng nấy, là bậc tri thức. Còn Phật pháp thì ngược lại biết nhiều chừng nào, sở tri chướng ngại nhiều chừng nấy, cho nên làm sao chấm dứt được cái tìm hiểu biết ? Không chấm dứt thì chẳng thể ngộ, chẳng thể thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao. Như thế cứ từ chiêm bao này qua chiêm bao khác; nay là chiêm bao con người, sau này có thể là chiêm bao con heo, con chó, con mèo ...

Nay tham thiền là muốn dẹp những cái che khuất cho mau thức tỉnh, Che khuất đó là: Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ, nên phải dùng cái không biết để chấm dứt.
 
Thích Vân Phong lược soạn

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Vì sao khi phá thai, trách nhiệm nhân quả của người mẹ nặng hơn?

Hỏi - Đáp 09:00 13/11/2024

Hỏi: Xin hỏi về tội phá thai, vì sao tất cả tội lỗi đều đổ lên thân của người mẹ? Lẽ nào người làm cha không chịu chút nhân quả nào?

Người trẻ phải sống bằng trí tuệ trong tình yêu và hôn nhân

Hỏi - Đáp 14:50 12/11/2024

Hỏi: Con và chồng con kết hôn với nhau, cuộc sống lúc đầu rất hạnh phúc. Nhưng sau anh ấy lại ăn chơi sa đọa, đi bồ bịch ở bên ngoài. Làm sao con có thể đối diện với con người bạc tình bạc nghĩa như vậy?

Thay đổi tượng thờ có phạm tội bất kính?

Hỏi - Đáp 16:30 11/11/2024

Hỏi: Nhà tôi lâu nay thờ tôn tượng Bồ-tát Quan Thế Âm, nhưng nay tôi muốn chuyển sang thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca, chẳng biết có được phép không? Có gì bất kính không? Và nếu thay được thì cách thức thế nào? Sau đó tôn tượng Bồ-tát Quan Thế Âm phải làm sao?

Hiểu đúng về tội trộm cắp của thường trụ

Hỏi - Đáp 17:00 09/11/2024

Lúc còn nhỏ, vì dại dột không hiểu biết nên tôi đã lên chùa tạo các lỗi sau: Vì rất mê hoa sen nên tôi đã lấy cắp hoa sen dâng cúng trên bàn Phật. Lúc khác, nhân thấy hạt sen trong hồ sen của chùa đã khô, tôi liền khởi tâm lấy cắp mấy hạt sen này mang về nhà trồng...

Xem thêm