Nỗi niềm thương nhớ quê hương cháy bỏng của Thiền sư, đại danh y Tuệ Tĩnh
Hậu thế hãy nên tìm cách giúp Thiền sư Tuệ Tĩnh, hãy đưa ông về quê hương mình, để bia mộ ông ở Giang Nam, Trung Quốc không còn nỗi nhớ thương khắc khoải: “Ai về nước Nam cho tôi về với”.
Cách đây gần 70 năm (27/02/1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Hội nghị cán bộ ngành Y tế với những lời dạy quý báu. Từ đó ngày 27/02 chính thức được tôn vinh là Ngày Thầy thuốc Việt Nam để ghi nhận những đóng góp, những cống hiến, sự hy sinh thầm lặng của những người làm công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Như vậy để tìm hiểu về nghề chữa bệnh cứu người ở Việt Nam được hình thành từ khi nào? Và do ai khai sáng?
Tra cứu lịch sử Việt Nam về các danh y nổi tiếng thì có thông tin như sau:
Đại y sư Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh sinh năm 1330, không rõ năm mất, ở tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương). Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ và được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi dạy. Lúc 22 tuổi, dưới triều vua Trần Dụ Tông, ông thi đậu Thái học sinh nhưng ông không ra làm quan mà xuất gia đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, cứu người, chữa bệnh cho dân.
Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài "Phú thuốc Nam" 630 vị cũng bằng chữ Nôm.
Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Nam dược trị Nam nhân" thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh. Quan điểm ấy dẫn dắt ông lên ngôi vị cao nhất của nền y học cổ truyền Việt Nam: Ông Thánh thuốc Nam! Trong trước tác của mình, ông không rập khuôn theo các trước tác của các đời trước, Ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào bùa chú mà không tin dùng vào thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông…
Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ.
Năm 55 tuổi (1385), với trí tuệ uyên bác trong ngành y thuật của mình, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư, ông qua đời tại Giang Nam, Trung Quốc nhưng không rõ năm nào.
Tuệ Tĩnh xót thương cho số phận của mình và luôn đau đáu nỗi niềm một ngày được quay lại quê hương, thoát khỏi cảnh đất khách quê người thể hiện qua việc ông đã khóc trong lễ nhậm chức của mình tại triều đình nhà Minh và cho tới ngày nay, trên bia mộ của ông vẫn còn dòng chữ: "Ai về nước Nam cho tôi về với".
Năm 1690, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Hoa, tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh, nhận ra là người cùng làng. Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê Hải Dương bây giờ.
Sự việc của tiến sĩ Nguyễn Danh Nho khắc lại bia cụ Tuệ Tĩnh mang về nước được ghi lại trong tài liệu của đền Bia (Hải Dương) như sau: "Năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), ông Nguyễn Danh Nho đậu đại khoa đậu Tiến sĩ, được giữ chức Tả ti giám, Hiến sát sứ, sau thăng đến Bồi tụng Hữu thị lang, tước Nam. Khi đi sứ sang Trung Quốc, đến Giang Nam, ông đã sao lục văn bia Thiền sư Tuệ Tĩnh, mang về tạo tấm bia đá khắc nội dung trên đưa về quê hương. Đến địa phận giáp giới giữa Văn Thai và Nghĩa Phú thì thuyền chở bia bị đắm. Mọi người cho là đắc địa nên dựng bia tại nơi bia bị chìm, nay là đền Bia, xã Cẩm Văn (Cẩm Giàng, Hải Dương)".
Nhiều thế kỷ qua, Thiền sư Tuệ Tĩnh được nhân dân suy tôn là vị Tổ ngành y của Việt Nam. Đền thờ của ông được lập ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, tỉnh Hải Dương (đền Bia).
Ngoài ra, ở chùa Hải Triều - làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng - có đặt thờ tượng Thiền sư Tuệ Tĩnh.
Câu đối thờ ông ở đền Bia được dịch nghĩa như sau:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái Lĩnh
Sống nhờ cửa Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
'Ôn Trúc Lâm' Thích Mật Hiển
Chân dung từ bi 11:53 09/11/2024Lúc mới lui tới cửa Phật (cuối những năm 50 thế kỷ trước), tôi đã nghe nói trong lịch sử Phật Giáo ở Thuận Hóa Phú Xuân có câu: “Quảng Trị Trung Kiên - Thừa Thiên Dã Lê”.
Ni trưởng Diệu Không và một đời bát kỉnh thị y
Chân dung từ bi 16:39 23/10/2024Ni trưởng Thích nữ Diệu Không là một trong những bậc danh Ni thời hiện đại của Phật giáo Việt Nam. Tuy xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, nhưng Sư trưởng đã một lòng xả tục cầu chơn, xuất gia đầu Phật, hành Bồ-tát đạo.
Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn và sự nghiệp “trồng người”
Chân dung từ bi 09:20 23/10/2024Vốn là một bậc thầy mô phạm của nhiều thế hệ Ni lưu suốt những năm tháng dài tại thế, Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn (1919-2003) được biết đến như một ngôi sao sáng của Ni bộ Bắc Tông giữa thế kỷ XX.
Giáo sư Angraj Chaudhary: Ngài Thích Minh Châu mà tôi biết
Chân dung từ bi 10:45 22/10/2024Thư của Giáo sư Angraj Chaudhary được dịch và đọc tại Hội thảo về Trưởng lão HT. Thích Minh Châu (1918-2012) vào ngày 20/10/24 tại Pháp viện Minh Đăng Quang, nhân dịp Lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (1989-2024) vào ngày 19-20/10/2024.
Xem thêm