Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 29/12/2022, 13:05 PM

Thiền sư Vạn Hạnh: Từ tư tưởng đến hành động

Hòa Thượng Thích Mãn Giác: “Và nếu Niết Bàn là nẻo tận của kẻ đạt đạo, thì Vạn Hạnh quả là người đã xông thẳng vào rừng chông gai của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chuyển mình tự chủ để tiến vào nẻo ấy vậy”.

Audio

Từ tư tưởng đến hành động. 

Giai đoạn hấp thụ truyền thống 958-980: 

Vào năm 21 tuổi khi đi tu theo thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi, trong 22 năm, sư VH đã hấp thụ hai truyền thống tinh thần–một là từ Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi ( đến Giao Châu hành đạo năm 580 ) truyền xuống 11 đời về tôn chỉ tu hành ; hai là lòng yêu nước âm ỉ trong đáy sâu tâm hồn của toàn dân nuôi chí độc lập tự chủ trong suốt ngàn năm Bắc thuộc. Lòng yêu nước đó không phải là “chủ nghĩa yêu nước” mà là một sức mạnh tâm linh vượt cao hơn mọi chủ nghĩa, mọi hệ thống triết học du nhập từ ngoài như Phật giáo, Nho giáo, Lão Giáo, Duy Tâm sử quan hay Duy Vật sử quan . Sức mạnh đó đươc kết tinh và thể hiện bằng hành động nơi những cá nhân tài ba nổi lên lãnh đạo toàn dân chống Hán tộc : Trưng ,Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ.

Hòa Thượng Thích Mãn Giác viết : "Cuộc khởi nghĩa thất bại của Phùng Hưng (năm 791 chống nhà Đường) và những biện pháp kềm kẹp tiếp đó đã làm cho người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ…….Sự suy nghĩ lại của người Việt Nam có học và có tiềm năng lãnh đạo chính trị là phải ẩn nhẫn đào tạo nhân tài để chờ thời cơ thuận tiện. Nhà chùa trong thời Bắc thuộc lần thứ tư này quả đã tích cực theo chính sách đó” ( sđd VH,KĐQCLS trang 18-19). 

Chính quyền đô hộ của người Tàu tất nhiên chỉ dùng nho sĩ làm các việc thư lại mà thôi, và chỉ chăm lo xây đồn lũy, nhà tù và các trạm thu thuế, hầu như không xây dựng trường học hay mở mang các trung tâm văn hóa. Nhà chùa trở thành những nơi nương tựa tinh thần cho dân chúng, tức là nơi ấp ủ hồn dân tộc và nuôi dưỡng ý chí quật khởi. Sư Định Không ( thế hệ thứ 8 thiền phái TNĐLC–mất năm 808) ngay từ năm 785 đã tiên tri tại làng Cổ Pháp tỉnh Bắc Ninh sẽ xuất hiện nhân tài họ Lý xây dựng nền móng lâu bền cho nền độc lập tự chủ của dân tộc (sđd VNPGSL trang 137). Vậy là lời tiên tri đó đã lưu truyền trong dân gian gần 200 năm khi nhà Đinh mất năm 980, khi sư Vạn Hạnh hơn 40 tuổi và khi Lý Công Uẩn mới chỉ có 6 tuổi ( 974-980)  truyền qua 3 thế hệ thiền sư : Thông Thiện (thế hệ thứ 9), La Quý An ( thế hệ thứ 10), Thiền Ông (thế hệ thứ 11).

Chính Cao Biền, một danh tướng của nhà Đường có tài phong thủy địa lý, cai trị đất Giao Châu 9 năm từ 866 đến 875 đã nhìn biết đất Cổ Pháp là địa linh sinh nhân kiệt nên cho đào 19 địa điểm để yểm phá theo lệnh của vua Đường Ý Tông (860-873). Nhưng chính sư La Quý An đã cho lấp cả 19 nơi như cũ. Sự truyền thừa ý chí quật khởi từ thế hệ này sang thế hệ khác giống như một cuộc chạy rước đuốc tiếp sức, có lẽ khi đến tay Vạn Hạnh thì đã chín mùi.

Thiền sư Vạn Hạnh, tu sĩ Phật giáo với sứ mệnh lịch sử

1

Giai đoạn huấn luyện và tiến cử Lý Công Uẩn  981-1005 

Mùa đông năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị ám sát bởi một kẻ hầu cận tên Đỗ Thich, nhà Đinh mất ngôi. Biến cố kinh hoàng này có thể đã khiến sư VH suy nghĩ về ảnh hưởng của phong thủy địa lý đến vận mệnh của một triều vua. Kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh không có khí vận lâu bền cho một vương triều. Khi vua Lê Đại Hành vẫn giữ Hoa Lư làm kinh đô, sư Vạn Hạnh có thể tiên đoán vận số nhà Lê không dài . Tác giả Lê Văn Siêu viết :” Đất Hoa Lư vốn là nơi sơn động trong đó quyền thế tập của lang chúa còn to và vững. Đến như Lê Hoàn, Thập Đạo Tướng Quân, binh quyền ở cả trong tay mà vẫn phải chờ Dương Thái Hậu khoác áo long cổn cho mới chính thức được để lên ngôi Hoàng Đế. Áo long cổn ấy là biểu tương cái quyền của ông vua chung cho cả nước, mà cũng là biểu tượng cái quyền lang chúa ở riêng sơn động” (sđd-VHĐL–trang 110). 

Việc Đỗ Thích giết một lúc hai vua Đinh còn là một nghi vấn lịch sử. Có thể hắn bị xúi giục bởi những hùng trưởng thân với nhà Tống. Cũng có thể hắn bị mua chuộc bởi những lang chúa vùng sơn động mà uy quyền truyền thống trong giòng họ vẫn còn rất mạnh mặc dù ngủ ngầm. Vua Lê Đại Hành hẳn đã rút kinh nghiệm từ biến cố này nên phải tuyển quan ngự lâm người miền xuôi, văn võ đạo đức hoàn toàn để bảo vệ hoàng gia.

Khi vua lên ngôi thay nhà Đinh năm 981, sư Vạn Hạnh đã 44 tuổi, được vua mời vào triều tham vấn việc chính trị kháng Tống phạt Chiêm, chứng tỏ sư đựơc vua kính trọng và tin tưởng ngang với sư Pháp Thuận (thế hệ thứ 10). Năm này, Lý Công Uẩn được 7 tuổi, đã theo học sư VH ở chùa Lục Tổ. Sách ĐVSKTT chép :”Lúc còn trẻ thơ, (LCU)đến học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh thấy khen rằng: "Đứa trẻ này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ” (sđd-Kỷ Nhà Lý-trang 159).           

Dưới sự giáo dục của sư, khi trưởng thành Lý Công Uẩn là người văn võ song toàn, lại sẵn có bản tính nhân từ , khoan thứ, tinh mật, ôn nhã. Hẳn là do sự tiến cử của sư Vạn Hạnh mà chàng trai Lý Công Uẩn được nhà vua tin dùng: "Lớn lên làm quan nhà Lê được thăng dần lên chức điện tiền chỉ huy sứ” (sđd–trang 159). Chức vụ này giống như quan võ cận vệ bên vua. Đầu năm 1004, hoàng tử thứ ba là Nam Phong Vương Lê Long Việt được phong làm Thái Tử. Lý Công Uẩn có nhiệm vụ phò Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi kế nghiệp. Đầu năm sau 1005 vua băng hà, Thái Tử lên ngôi. “Vua lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết, bầy tôi đều chạy  trốn, duy có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Lê Ngọa Triều khen là người trung , cho làmTứ sương quân phó chỉ huy sứ, thăng lên đến Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ” (sđd–ĐVSKTT- bản in năm 1993–Tập I, trang 240)( từ chức phó chỉ huy quân coi bốn mặt thành lên đến chức cận vệ)). 

Long Đĩnh có tính tàn bạo, đã giết anh ruột thì bầy tôi ôm xác chủ mà khóc tất nhiên cũng sẽ bị giết. Thế mà Công Uẩn còn được Long Đĩnh khen là bầy tôi trung và cho làm cận vệ bên mình. Theo tác giả Lê Văn Siêu, sau đó sư Vạn Hạnh còn bầy kế để Công Uẩn lấy chị của vua làm vợ, lại cho em của vua là Bà Chúa Ba làm đệ tử tu hành ở chùa Hương ( sđd-VHĐL-trang 106 ). Như vậy thanh thế của Lý Công Uẩn trong triều rất lớn.

Giai đoạn vận động quần chúng chuẩn bị cho Lý Công Uẩn lên ngôi 1005-1009

Lòng dân oán ghét Lê Long Đĩnh càng ngày càng lớn trong 4 năm trị vì là môi trường thuận lợi cho việc vận động quần chúng chấp nhận thay ngôi đổi chúa. ĐVSKTT (ấn bản 2011, trang 155 ) chép lại một truyền thuyết theo đó sau khi cây gạo trồng ở hương Duyên Uẩn , châu Cổ Pháp ( trong chùa Minh Châu do sư La Quý An trồng từ năm 936 ) bị sét đánh, dân chúng thấy trên dấu sét đánh có bài thơ đại ý nói : Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ Lý nổi lên. Sư Vạn Hạnh cho loan truyền lời tiên tri này phù hợp với lời sấm truyền từ thời sư Đinh Không 200 năm trước. Chính sư lại bảo Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi  trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh tất dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay, người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới gặp một lần”. “  Nghe sư nói vậy, Công Uẩn sợ hãi lỡ ra bị tiết lậu nên cho người đem sư bí mật đi ẩn trốn ở làng Tiêu Sơn. Đến khi Lê Long Đĩnh chết năm 1009, con còn nhỏ, quan Chi Hậu Đào Cam Mộc nói với Lý Công Uẩn: "Ông là người công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ, lòng người phụ thuộc. Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi, ông nhân thế lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?”.  Rồi Cam Mộc cùng bá quan tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tức Lý Thái Tổ  mở đầu cho triều nhà Lý kéo dài 216 năm.

Lúc ấy Sư Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ nói với người chung quanh về biến cố xảy ra trong triều.Sư đã biết trước, dường như mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch vạch sẵn (sđd- VNPGSL-trang 143).

Tinh thần hộ quốc an dân của Thiền sư Vạn Hạnh

2

Giai đoạn thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long 1010

Tháng 10 năm 1009, Lý Thái Tổ lên ngôi tại Hoa Lư. Tháng 2 năm 1010 xa giá về quê Cổ Pháp ban thưởng tiền và lụa cho bô lão. Tháng 7 năm 1010 ban chiếu dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Thuyền đến bên thành có rồng vàng hiện ra trong thuyền ngự, bèn nhân đấy đổi tên thành Thăng Long, đổi châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức, đổi tên Hoa Lư thành phủ Trường Yên. Thế là cả một quá khứ hai triều Đinh Lê 42 năm từ 968 đến 1009 coi như lùi xa trong lòng dân để đón chào một tương lai rạng rỡ.

Việc dời đô xảy ra nhanh chóng trong vòng mấy tháng thật ra đã được thai nghén từ rất lâu trong kế hoạch trăm năm của sư Vạn Hạnh. Tác giả Nguyễn Lang viết: "Về phong thủy học, các thiền sư Định Không (730-808), La Quý An ( 852-936), và Vạn Hạnh (937-1018) đều  là những người nổi tiếng. Ta có nhiều lý do để tin rằng quốc sư Vạn Hạnh , thầy của Lý Công Uẩn, là người đã thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện bảo vệ cho nền độc lập được lâu dài……….Ta có thể nghĩ rằng thiền sư Vạn Hạnh vừa là người thảo chiếu, vừa là người thiết kế họa đồ cho kinh đô Thăng Long vậy” (sđd-VNPGSL-trang 136).

Trong tác phẩm VHĐL, tác giả Lê Văn Siêu viết :”Việc kiến trúc đô thị, thì từ ngày lập quốc cho tới đời Lý, cũng như từ sau đời Lý cho tới ngày chúng ta đang sống (1957), chưa hề có một công cuộc xây dựng đại quy mô như vậy……….Đứng ở phương diện nghệ thuật thuần túy thì phải coi thành Thăng Long là một sáng tác phẩm vô cùng cao đẹp” (xem chi tiết trong sđd- Chương IV -Kiến Trúc Tinh Thần Thời Lý–trang 100 ).

Sư Vạn Hạnh không để lại những tác phẩm lý luận triết học dài ngàn trang như kiểu các triết gia phương tây. Những chuỗi lý luận triết học luôn luôn phải dùng những khái niệm trừu tượng, dùng chữ này để giải nghĩa chữ kia khiến cho tâm trí người lý luận luẩn quẩn với những từ ngữ vô vị. Điều này trái với tôn chỉ của thiền phái TNĐLC vốn chủ trương tu tâm phải vượt qua ngôn ngữ , siêu việt khái niệm có -không. Thầy truyền “tâm ấn” cho đệ tử bằng cử chỉ hay hành động hơn là bằng ngôn ngữ.  Đệ tử chứng được một trạng thái tâm giải thoát nào đó chỉ bằng cách tu tập thiền chỉ và thiền quán mà không bằng cách tìm hiều giải nghĩa kinh văn.

Cái nhìn về lịch sử của các vị sư thiền phái này không phải là một cái nhìn không tưởng viễn đích luận vốn chủ trương một giai cấp đặc biệt trong xã hội sẽ trở thành một giai cấp phổ quát  trong tương lai nhờ vào chế độ chuyên chính dùng bạo lực đàn áp các giai cấp khác. Đó cũng không phải là cái nhìn thực dụng với tâm trục lợi như kiểu Lã Bất Vi thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa  mưu mô buôn vua để mong hưởng vinh hoa phú quí cho bản thân.

Mà đó là cái nhìn  với tâm vô chấp, vô cầu, dựa trên những điều kiện cụ thể hiện thực  : Yếu tố phong thủy hay địa lý, yếu tố nhân sự là quần chúng, yếu tố lãnh đạo là ông vua và tầng lớp  thừa hành lệnh vua gọi là quần thần. Trong trường hợp sư Vạn Hạnh, thì sư đã tìm được nhân tài để huấn luyện thành một ông vua giỏi và đạo đức là Lý Công Uẩn, đã có quần thần giỏi là Đào Cam Mộc, đã có quần chúng đang chịu khổ ải về ông vua ác Long Đĩnh, vùng địa lý có phong thủy xấu là Hoa Lư, tốt là thành Thăng Long. Tiêu chuẩn tối cao làm lịch sử của sư là đào tạo một ông vua anh minh lo cho dân tộc độc lập tư chủ với ngoại bang và xây dựng hạnh phúc cho mọi tầng lớp xã hội. Việc đổi ngôi không đổ máu, không gây oán cừu là một hành động từ bi hiếm có trong chính trường.

Sư Vạn Hạnh viên tịch trước vua Lý Thái Tổ (băng hà 1028). Ba  triều vua kế tiếp của nhà Lý ( Lý Thái Tông 1028-1054 - Lý Thánh Tông 1054-1072—Lý Nhân Tông 1072-1127 ) đã củng cố nền độc lập tự chủ của dân tộc vững mạnh hơn cho đến đỉnh cao là dưới thời Lý Nhân Tông có danh tướng Lý Thường Kiệt vào năm 1075 trở đi lập đại công phá Tống bình Chiêm. Nhìn lại từ bước khởi đầu vào năm 1010 Lý Thái Tổ thiên đô về thành Thăng Long cho đến khi vua Lý Nhân Tông mất vào năm 1127, nhà Lý đã trụ hơn 100 năm. Trong lúc còn trị vì, chính vua Lý Nhân Tông đã nhìn nhận ảnh hưởng tinh thần to lớn của Sư Vạn Hạnh trong công cuộc dựng nên vương triều qua bài thơ truy tán công lao của Sư như sau: 

                            Vạn Hạnh dung tam tế

                                            Chơn phù cổ sấm cơ

                                            Hương quan danh Cổ Pháp

                                            Trụ tích trấn vương kỳ

Có bốn học giả dịch bài thơ này ra bốn phiên bản như sau:

1/ Lê Văn Siêu dịch nghĩa: Sư Vạn Hạnh thông cả ba nền học (tam giáo:Nho, Lão,Phật); sự ra đời của ngài thật rất hợp với lời sấm cổ. Ngài đã làm rạng danh quê nhà ở Cổ Pháp và đã chống gậy Phật để trấn giữ nơi đế đô  (VHĐL-trang 40).

2/ Nguyễn Đăng Thục dịch nghĩa : Thiền sư Vạn Hạnh hợp nhất được ba cõi quá khứ, hiện tại, vị lai.

Đúng với tinh thần tiên tri thời cổ xưa. Quê hương  danh tiếng là Cổ Pháp ( kinh đô Phật giáo Việt Nam tối xưa ). Thiền sư đem gậy thiền học bảo vệ cho lãnh thổ quốc gia. (Xem sách  “Thiền Học Việt Nam–in năm 1966 tại Gia Định–Chương “Triết Lý dung tam tế của thiền sư Vạn Hạnh).

3/ Nguyễn Lang dịch thành thơ:  Hành tung thấu triệt ba đời. Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa. Quê hương Cổ Pháp bây giờ. Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền ( VNPGSL-trang 144).

4/ Hòa Thượng Thích Mãn Giác dịch thành thơ: Vạn Hạnh thông ba cõi. Thật hợp lời sấm xưa.

Quê nhà tên Cổ Pháp. Gậy chống giữ nghiệp vua.(VH,KĐQCLS–trang 13).

Theo ý kiến thô thiển của chúng tôi, thì vua Lý Nhân Tông tán thán tài học của sư Vạn Hạnh vì đã hòa hợp được ba nền học từ ngoài du nhập vào nước ta là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo vào trong tâm hồn dân tộc thành một hệ tư tưởng riêng của Việt Nam, khiến cho nhà Lý vững vàng cho đến thời vua là hơn trăm năm và sẽ còn trụ cả trăm năm nữa. Mặc dù nhà Lý dứt nghiệp sau hai trăm năm nhưng đã xây dựng được nền móng vững chắc cho nền độc lập tự chủ với các tộc hiếu chiến phương Bắc, khiến cho mọi cuộc xâm lăng sau này của tộc Nguyên Mông, của Hán tộc Minh triều hay Mãn tộc Thanh Triều đều nếm mùi thảm bại.

Chúng tôi xin phép kết luận bài này bằng lời nhận định của Hòa Thượng Thích Mãn Giác: “Và nếu Niết Bàn là nẻo tận của kẻ đạt đạo, thì Vạn Hạnh quả là người đã đã xông thẳng vào rừng chông gai của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chuyển mình tự chủ để tiến vào nẻo ấy vậy”. 

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Bậc Thầy mô phạm

Chân dung từ bi 14:50 25/03/2024

Giản dị nhưng sâu lắng, nghiêm nghị mà từ bi, nhẹ nhàng nhưng vững chãi, uy hùng mà bao dung. Mỗi lời nói của khẩu đều là Pháp ngữ, mỗi động tĩnh của thân đều là Phật hạnh. Tùy duyên nhậm vận, trọn đời thuyết pháp cứu độ quần sinh, hòa quang đồng trần, thuận theo nhân tâm mà hành Phật sự.

“Làm đến Hòa thượng mà tôi nhận thấy còn thua hồi nhỏ”

Chân dung từ bi 10:15 11/03/2024

Có lúc giữa chúng đông, tôi thường nói, bây giờ làm đến Hoà thượng mà tôi nhận thấy còn thua hồi nhỏ. Ai nấy đều ngạc nhiên!

Cuộc đời và đạo nghiệp của Đệ Tam Tổ Huyền Quang

Chân dung từ bi 16:00 02/03/2024

Thiền sư Huyền Quang玄光 (1254-1334), thế danh là Lý Đạo Tái[1] 李道載, quê ở hương Vạn Tải, lộ Bắc Giang Hạ (khoảng những năm niên hiệu Hồng Đức 1470-1497 đời Lê Thánh Tông đổi tên thành xã Vạn Tư, huyện Gia Định; nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).

Thiền sư Vạn Hạnh - Hình tượng ngàn năm

Chân dung từ bi 11:20 06/02/2024

Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Xem thêm