Trải lòng từ bi
Lòng từ bi là một đức tính được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong tam tạng kinh điển của Phật giáo, bởi vì đây là một phẩm hạnh rất quan trọng. Người học Phật, việc cốt yếu là vun trồng Từ-Bi-Hỷ-Xả cho thật sâu rộng. Bởi vì Từ-Bi-Hỷ-Xả là công hạnh mà ba đời chư Phật đều thực hành trên đường tu để thành tựu Chánh đẳng Chánh giác.
Để giúp mọi người hiểu rõ hơn về tâm từ bi, chúng tôi chia sẻ về đề tài “Trải lòng từ bi”, xem như là pháp tu căn bản nhưng vô cùng quan trọng để cùng nhau nhắc nhở chính bản thân mình, nhằm khơi dậy đức tính từ bi vốn có trong tâm tánh mỗi người.
Lợi ích tu tập tâm từ
Khi đối diện với những điều tốt đẹp, những cử chỉ thân thiện, ta rất dễ mở lòng đón nhận. Thế nhưng, khi gặp điều bất như ý, việc trải lòng bao dung là một điều hết sức khó khăn. Ví như gặp những ai thân thiện, đón mừng, nói những lời tốt đẹp thì mình liền niềm nở đón nhận. Còn khi gặp ai cử chỉ không thân thiện, nói những lời trái ý, không niềm nở đón tiếp thì chúng ra liền sanh tâm khó chịu. Việc trải lòng từ bi phải thật sự xuất phát từ tấm lòng rộng mở, ngay cả khi gặp những chướng duyên, những điều bất như ý ta cũng sẵn sàng trải lòng đón nhận. Có như vậy thì mới cảm hóa được người khác, cảm hóa được cuộc đời. Không những cảm hóa những người thiện duyên với mình, mà còn cảm hóa cả những người nghịch duyên, đó mới là điều đặc sắc của Phật giáo.
Như chàng Vô Não (Angulimala) là người đại ác, cầm dao muốn giết cả mẹ mình. Thế nhưng, với lòng từ bi vô hạn, Đức Phật đã đến và cảm hóa chàng Vô Não. Nhờ vậy, mà từ một người đại ác, Vô Não đã tu hành, trở thành một bậc Thánh trong Tăng đoàn. Đó là minh chứng cho lòng từ bi, cảm hóa của Đức Phật. Trong suốt 49 năm hành đạo, Đức Phật luôn trải lòng từ bi một cách bình đẳng. Từ những người mến mộ Đạo pháp, như bậc vua chúa cho tới thường dân, hay những người chống phá, bày mưu tính kế hãm hại Phật, Ngài đều bao dung, cảm hóa tất cả. Lòng từ bi của Ngài phổ rộng, không phân biệt thân sơ, sang hèn, thuận nghịch.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương 8, phẩm Từ, bản dịch của HT. Thích Minh Châu, có đoạn kinh như sau:
“Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, tại Jetavanna, khu vườn Ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích. Thế nào là tám? Ngủ được an lạc, dậy được an lạc, không thấy ác mộng, được người ái mộ, được phi nhân ái mộ, được chư thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc hay kiếm không gia hại, nếu không thông đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới.
Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích này”.
Các ví dụ trong đoạn kinh kể trên rất đặc biệt. Như khi rót một ly nước đầy tràn, tâm từ của người tu tập cũng phải được làm cho đầy đặn, sung mãn như vậy. Rồi đem tâm từ đó sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Tâm từ sung mãn có khả năng chứa đựng được mọi điều thiện ác, mọi điều như ý và bất như ý, như một cỗ xe tốt có thể chuyên chở được nhiều thứ.
Căn cứ địa chính là khi có chuyện gì đi qua tâm mình, thì trước tiên phải bắt gặp tâm từ của mình. Căn cứ địa là thứ luôn túc trực, ở sẵn một chỗ. Như các vị anh hùng bảo vệ dân tộc thuở xưa, muốn đánh trận phải chuẩn bị đầy đủ khí giới, lập căn cứ địa vững chắc. Người tu tập cũng vậy, tâm từ bi phải ở sẵn trong tâm mỗi người, đầy đủ, trọn vẹn, để tiếp đón giặc phiền não và những điều bất như ý, nhằm chuyển hóa và chứa đựng chúng.

Được tùy trú có nghĩa là tâm từ bi phải luôn theo sát chúng ta, luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày. Khéo tác thành có nghĩa là làm cho tâm từ bi được hoàn thiện đầy đủ.
Tâm từ phải dồi dào, thì tâm lượng mới trở nên rộng rãi, như những gia đình giàu có thì phòng ốc rộng rãi, có thể chứa được nhiều người. Tâm lượng từ bi rộng lớn phải đi kèm với tâm không phân biệt. Cho dù căn nhà có rộng lớn, có chứa được nhiều người, nhưng nếu chỉ đón tiếp những người chúng ta mến mộ, người thân yêu thôi thì cũng chưa đủ là từ bi rộng lớn. Một người có lòng từ bi rộng lớn phải đón tiếp và vui vẻ với cả những người có nghịch duyên với mình, như một căn nhà rộng lớn đón tiếp cả những người không mấy thân thiện với gia chủ. Chúng ta hãy quay về quán chiếu lại bản thân xem tâm lượng từ bi của mình đang được mức độ nào. Để từ đó có cách rèn luyện, tu tập để mở rộng tâm lượng. Nhờ vậy, mà những khi gặp chuyện bất bình, thì tâm sân không nổi lên. Có khi chúng ta tu tập vài chục năm, nhưng tư lương cho đường sanh tử còn ít ỏi, gặp những thử thách trên con đường chuyển hóa sẽ khó mà vượt qua khỏi. Phải nhận ra tầm quan trọng của tâm từ bi để tích lũy ngày một thêm lớn. Có khi đồng hành với các bậc tu hành có đạo cao đức trọng, ta cùng vị ấy gặp điều bất bình như nhau. Vị ấy dạy thôi hãy tránh đi, nhưng ta lại nổi tâm sân, trách luôn cả vị ấy là tại sao gặp chuyện như vậy mà không lên tiếng. Thật ra, có những chuyện nếu nói ra mà không đem lại lợi ích, không đem lại vui vẻ, bình yên, thì chúng ta không nên nói. Khi tâm lượng đủ lớn thì sẽ biết lựa lời để nói, lựa thời điểm thích hợp và lựa người để nói, để có thể đem lại an vui. Như vậy, thì người có tâm lượng từ bi đủ lớn, sẽ không bao giờ nói chuyện thị phi, không nói lời làm hại người khác và gây phiền não cho chính mình.
Khi chúng ta tham gia các khóa tu là chúng ta thực tập và tích lũy năng lượng của từ bi, của bình an, thì hãy cố gắng để cho năng lượng đó mỗi ngày mỗi lớn dần lên. Như vậy, sự an lạc không giới hạn trong chỉ một ngày, mà phát triển thành một tuần an lạc, một tháng, một năm và một đời an lạc. Khi mạnh khỏe cũng an lạc, khi bệnh đau cũng an lạc; sống cũng an lạc, khi chuẩn bị từ bỏ cõi trần cũng an lạc. Đó mới là ý nghĩa thật sự của tu tập, chứ không phải chỉ khi đến chùa tham dự khóa tu thì mới an lạc, còn khi rời khỏi khóa tu thì chúng ta lại khổ đau. Khi trong tâm chúng ta có tâm từ bi, thì sẽ có được nhiều điều lợi ích. Trong đoạn kinh ở trên, Đức Phật đã chỉ ra 8 điều lợi ích của tâm từ, đó là:
1. Ngủ được an lạc: Khi thân tâm và nhận thức đều thuần khiết, từ bi thì tâm chúng ta an lành, từ đó mà khi ngủ luôn được an lạc.
2. Dậy được an lạc: Chúng ta dễ nhận thấy nhiều khi ngủ rất ngon, nhưng khi thức lại cảm giác người rất mệt mỏi, khó chịu. Tu tập tâm từ giải quyết được vấn nạn trên, không những khi ngủ mà còn khi thức dậy đều thấy thân tâm được an lạc.
3. Không thấy ác mộng: Hằng ngày, thực tập thân, khẩu, ý, trở thành thuần thiện, khi ngủ thì thân, khẩu, ý, chắc chắn an ổn. Lúc đó, tâm thức của chúng ta không còn hoạt động mạnh mẽ nữa, cho nên không tạo ra những ác mộng, ảnh hưởng tới giấc ngủ. Tuy việc tu tâm từ không nhằm mục đích bảo vệ giấc ngủ, nhưng thông qua những biểu hiện của quá trình ngủ và thức dậy đều an lành, không gặp ác mộng, có thể nhận ra được sự an lành của thân và tâm của người có tu tập.
4. Được người ái mộ: Khi có lòng từ, chính bản thân mỗi người sẽ luôn nhẹ nhàng, an vui. Lúc đó, dù có gặp ai, mình cũng đều hoan hỷ, được mọi người thương mến. Mỗi người phải tự xem xét lại mình, khi đến những nơi đông người, như đến khóa tu, thì mọi người xung quanh có thái độ như thế nào với mình. Từ đó, có thể phần nào biết được năng lượng tâm từ của chúng ta đến đâu, có thể tỏa ra không khí an vui cho mọi người xung quanh không? Mỗi khi làm việc gì mà trái với lòng từ bi, hãy ghi chú lại, để xem một tuần hay một tháng ta đã làm những gì ảnh hưởng đến tâm từ của mình, từ đó mà phòng hộ, từ bỏ. Mỗi khi có khóa tu, hãy cố gắng làm sao cho một ngày tu tập đó thật sự an lạc. Chúng tôi khi gặp quý vị cũng cố gắng vun bồi thiện tâm cho quý vị và cũng là vun bồi cho chính mình mỗi khi có duyên gặp gỡ.
5. Được phi nhân ái mộ: Người có tâm từ thì không những được người khác ái mộ, mà còn được những hạng không phải người ái mộ. Họ là những loài tồn tại vô hình xung quanh chúng ta. Khi lòng từ của ta tỏa ra năng lượng thanh bình, họ sẽ theo hộ vệ, kính phục. Mỗi người phải có niềm tin vào công đức tu tập của chính mình. Lấy công đức đó hồi hướng cho thế giới phi nhân, nguyện cho họ cũng biết bỏ ác làm lành, tích tụ công đức. Thực tập như vậy, thì tâm từ sẽ ngày càng được mở rộng hơn. Khi tu tập, chúng ta không chỉ hồi hướng cho bản thân, cho gia đình hay những người hiện hữu xung quanh, mà còn hướng tâm đến những thế giới chưa thấy được. Mỗi chùa chiền hay tịnh xá đều có hai thời công phu, đặc biệt là công phu chiều. Thời kinh ấy, thường hồi hướng cho cõi âm được siêu thoát, cho những thế giới vô hình đang còn vướng bận trần gian được no đủ.
Khi gặp những người còn hiện hữu xung quanh mình, hãy biết cách trải rộng tâm từ với họ, tránh việc ganh ghét, cho dù là người quen hay người lạ, người hiền hay người dữ. Ví như thấy người vô chùa nhưng tâm còn xấu, làm điều sai trái, thay vì khởi tâm ghét bỏ, chỉ trích, thì chúng ta hãy mở rộng lòng thương họ, vì họ tu chưa tới, nghiệp còn nặng rồi từ từ cảm hóa họ, giúp họ từ bỏ các điều xấu ác. Thực tập như thế sẽ giúp cho chúng ta phát triển lòng từ không phân biệt, để rồi khi tâm hướng đến cõi vô hình, chúng ta không sợ hãi, hay ghét bỏ, dùng tâm từ để hồi hướng điều tốt lành cho họ.
6. Được chư thiên hộ trì: Chư thiên là loài thường hộ trì Tam bảo. Đa số họ là thiện thần hộ trì Phật pháp. Trong thực tế, có nhiều vị tu sĩ đến những nơi hẻo lánh để kiến lập ngôi Tam bảo, hoặc trụ trì một ngôi chùa. Ban đầu, nơi đó không có đạo tràng Phật tử hay người cúng dường, nhưng khi vị tu sĩ dụng công tu tập mỗi ngày, thì ngôi chùa ngày càng có nhiều người đến học đạo, hộ trì Tam bảo. Được như vậy, một phần cũng nhờ chư thiên vô hình dẫn dắt, hỗ trợ. Người tu tập tâm từ cũng như vậy, nếu phát nguyện và thực hành nuôi dưỡng tâm từ, thì cũng được chư thiên hộ trì.
7. Lửa hay thuốc độc, hay kiếm không gia hại: Khi tu tập tâm từ lớn mạnh, chẳng những thành tựu các điều lành kể trên, mà ngay cả những tai nạn bất chợt cũng không đến. Những tai nạn bằng một cách nào đó không xảy đến với chúng ta là nhờ tu tập tâm từ mà được phước báu vô lượng. Kể cả khi đối diện với kiếp nạn cũng có quý nhân hỗ trợ.
8. Nếu không thông đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới: Tâm từ bi được tu tập làm cho sung mãn, khiến cho hành giả được an trú trong thiện pháp. Do vị ấy chưa thành tựu những quả vị giải thoát, giác ngộ thì ít nhất cũng được sanh vào cõi Trời Phạm Thiên. Nơi ấy, có đời sống nhẹ nhàng, hoan hỷ.
Đó là tám điều lợi ích mà chúng ta có được nhờ tu tập tâm từ. Tâm từ càng lớn mạnh, thì kiết sử càng yếu dần, nghiệp chướng cũng mỗi ngày giảm bớt. Cho dù gặp những điều không tốt đẹp, gặp người gia hại, thì ta cũng xem đó là nghiệp phải trả, hoan hỷ trả nghiệp để mỗi ngày mỗi thăng tiến trên đường tu. Phải có niềm tin vào bản thân, tin rằng mình đủ khả năng để gánh chịu, trả nghiệp và hóa giải nghiệp.
Đệ tử Phật luôn thực hành tâm không phân biệt, luôn từ, bi, hỷ, xả với mọi chúng sanh. Học theo hạnh của các vị đại Bồ-tát, ta có thể chịu đựng và chuyển hóa được mọi điều xung quanh mà trong tâm không sanh ra bất bình. Điều này, đòi hỏi sự thực tập và dụng công miên mật, như người tập nâng tạ, họ phải tập luyện mỗi ngày, rồi tăng dần cân nặng lên cho tới khi thành tựu. Việc thực tập như vậy, cốt yếu ở bản thân mỗi người quyết định, không ai thực tập thay ai, cũng không ai có thể ép ai phải làm. Những người tự biết thực hành, thì mỗi ngày sẽ tăng trưởng tâm lực dõng mãnh, từ bi vô lượng.
Mỗi ngày phải tự quán chiếu, noi gương các bậc đại từ, đại bi mà chúng ta biết. Trên hết là Đức Phật, kế đến là các vị Bồ tát, chư Tổ sư, các vị cao Tăng, gần hơn nữa là người thầy, mà mình có duyên nương tựa tu học. Mỗi vị đều là tấm gương sáng để ta noi theo, thực tập tâm từ. Người tu tập tâm từ không còn ngại khi đối diện với bất kỳ ai, cho dù là người hiền kẻ dữ, họ đều tự tin dùng tâm từ để hóa giải tất cả. Sự thực tập còn mở rộng ra đến tất cả mọi người, mọi giới, mọi sinh vật. Nhờ niềm tin và tu tập tâm từ như vậy, mà mọi điều cầu nguyện, mong muốn đều được như ý, điều này được so sánh như sau:
“Các ẩn sĩ, vua chúa
Theo nghi lễ tế tự
Lễ tế ngựa, tế người
Lễ uống nước thắng trận
Lề ném cầu may rủi
Lễ rút lui khóa cửa
Không được phần mười sáu
Bậc khéo tu từ tâm
Như ánh sáng mặt trăng
Đối với các quần sao
Không giết, không bảo giết
Không thắng, không bảo thắng
Từ tâm mọi chúng sanh
Không hận thù với ai”.
(Trích lược từ Kinh Tăng Chi Bộ, tập 3, chương 8, phẩm Từ)
Ấn Độ thuở xưa có phong tục tế thần để cầu nguyện. Không những các loài sinh vật vô tội bị đem đi hiến tế, giết hại, mà đôi khi còn đem cả người nữ ra để tế thần. Đức Phật đã lấy chính điều này để ví dụ cho thấy rằng tu tập từ tâm còn đem lại hiệu quả cầu nguyện gấp nhiều lần so với hiến tế.
Đối trị các tâm bất thiện
Trong Đại kinh Giáo Giới La-hầu-la, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật dạy rằng: “Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng từ; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng từ, cái gì thuộc sân tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng bi; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng bi, cái gì thuộc hại tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về hỷ; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về hỷ, cái gì thuộc bất lạc sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về xả; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về xả, cái gì thuộc hận tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về bất tịnh; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về bất tịnh, cái gì thuộc tham ái được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về vô thường; này Rāhula, do tu tập sự tu tập về vô thường, cái gì thuộc ngã mạn được trừ diệt”.
Đoạn kinh trên, Phật đã dạy các phương pháp tu tập để đối trị những tâm bất thiện, cụ thể như sau:
1. Lòng từ đối trị sân tâm: Khi tu tập tâm từ, thì tâm sân hận mỗi ngày sẽ được giảm bớt. Như bản thân tôi, khi mới xuất gia, còn trẻ tuổi, tâm sân hận rất nhiều, trải qua thời gian tu tập thì tâm sân hận được giảm bớt đi. Chúng tôi không dám nói là diệt trừ hết tâm sân hận, vì nó là ác tâm đã huân tập sâu dày. Trong Kinh Hiền Ngu, Phật dạy phải trải qua 550 kiếp tu hành, thì mới từ bỏ được tâm này. Cho nên hiện tại, hầu như ai cũng còn tâm sân hận, chỉ khác nhau là người biết kiềm chế và người thì không biết kiềm chế. Thế nhưng, khi từ tâm hiện hữu, thì sân tâm không còn. Đó là một điều chắc chắn, chẳng thể nào có hai tâm cùng tồn tại trong một khoảnh khắc.
2. Lòng bi đối trị hại tâm: Bi - chính là tâm thương xót chúng sanh. Thông thường, chúng ta dễ sanh tâm muốn làm hại người khác, hay trả thù những người có hành động làm hại chúng ta. Nhưng khi bi tâm hiện hữu, thì sự thương xót sẽ lấn át tâm muốn gây hại ấy.
3. Tâm hỷ đối trị bất lạc: Hỷ tâm chính là tâm an vui. Hãy thực tập tâm này, kể cả khi gặp điều không vui. Mặc dù điều không vui vẫn tồn tại bên trong tâm mình, nhưng khi quán chiếu về hỷ tâm, hay nói một lời hài hước tạo sự vui vẻ, thì có thể làm chủ được bản thân, không buông ra những lời ác ý gây tổn hại người khác. Như việc uốn cây cảnh, mỗi ngày chúng ta uốn cong một chút, thì sẽ có ngày thành tác phẩm đẹp. Người tu tập cũng vậy, mỗi ngày thay đổi bản thân một chút, thì sẽ có khi thành tựu tâm từ bi, hỷ, xả vô lượng.
4. Tâm xả đối trị hận tâm: Hận tâm, tức tâm hận thù nằm sâu trong tâm thức mỗi người. Tu tập xả tâm, tức thực tập việc xả bỏ. Khi điều không vui, không vừa lòng được xả bỏ đi rồi, thì chúng ta sẽ không còn gì để thù hận nữa.
5. Quán bất tịnh đối trị tham ái: Tham ái sanh ra do mình cảm thấy những điều tốt đẹp, rồi muốn chiếm hữu. Việc tu tập quán bất tịnh giúp chúng ta nhận ra những điều không tốt đẹp của thân thể. Như việc ra mồ hôi, chất nhờn hằng ngày của cơ thể sẽ làm chúng ta chán ghét, thấy dơ bẩn... Việc quán sát sự bất tịnh của thân thể sẽ giúp chúng ta nhàm chán, giảm bớt sự ham muốn, tham ái.
6. Quán vô thường đối trị ngã mạn: Khi quán vô thường, nhận ra bản chất không thật của vạn pháp, thì chúng ta sẽ không còn thấy cái gì là ta, là của ta nữa. Như vậy, ngã mạn sẽ không còn, chính ta còn không thật thì ta còn tự hào, tự tôn vì điều gì?
Sự biểu hiện của tâm từ
Tâm từ có thể được thực tập và nhận biết biểu hiện mà Đức Phật đã chỉ bày, cụ thể là:
1. Thương chúng sanh như mẹ thương con: Đây là một điều quen thuộc trong Phật giáo. Không có tình thương nào sâu đậm và rộng lớn như tình thương của cha mẹ dành cho con cái. Muốn phát triển tâm từ, hãy xem mọi chúng sanh như con mình rồi đem tình thương không điều kiện mà đối đãi.
2. Thấy chúng sanh khổ, xót xa muốn cứu độ: Thấy nỗi khổ của chúng sanh, thì sanh lòng đồng cảm, muốn giúp cho chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Điều này, thể hiện rõ nhất khi Đức Phật quyết tâm xuất gia với ý chí mãnh liệt là muốn giúp chúng sanh thoát khổ đau sanh tử, luân hồi.
3. Thấy chúng sanh hiểu đạo, biết làm lành, hướng về đạo giải thoát thì sanh lòng vui mừng: Chúng ta hay bắt gặp trường hợp khi thấy những người đã từng làm điều gì sai quấy phát tâm đi chùa, thì họ sẽ bị người khác dè bỉu, chê bai là giả bộ đi chùa làm người đạo đức. Đây là một điều cấm kị, cần phải tránh! Khi người ta biết đến chùa, cho dù với tâm như thế nào đi nữa, thì đấy cũng là một sự khởi đầu tốt đẹp cho tiến trình tu tập của họ. Chúng ta phải biết hoan hỷ khi thấy người khác phát tâm thiện lành, hướng đạo.
4. Thường ái hộ chúng sanh, chẳng những săn sóc, giữ gìn thân mạng mà còn không có lời vô ý làm cho người bất mãn, buồn rầu: Thời Phật tại thế, mỗi sáng, nếu vị tu sĩ nào không đi khất thực, thì hôm đó không có gì để ăn. Có một lần, Ngài Tu-bồ-đề quán thấy nếu hôm nay Ngài đi khất thực, thì sẽ có một thanh niên gặp mặt Ngài, rồi sanh tâm ghét bỏ, sân si. Vì quán thấy như vậy, nên Ngài đã chấp nhận nhịn đói ngày hôm đó, không đi khất thực, để cho người thanh niên đó không gặp Ngài, không có dịp cho tâm sân nổi lên, để chịu quả báo về sau. Đó là một tình thương cao cả, tránh khỏi ác nghiệp cho chúng sanh.
Thực tập rải tâm từ
Để tu tập và phát triển tâm từ bi, mỗi ngày, chúng ta cần phải thực tập rải tâm từ bi của mình đến với mọi người, mọi loài. Bài kệ “Rải tâm từ” dưới đây được trích từ Kinh Tập, phẩm Rắn (Uragavagga), thuộc Tiểu Bộ Kinh, tập 1, sẽ tóm gọn những lời Phật dạy về tu tập tâm từ, giúp cho chúng ta dễ nhớ và dễ thực tập hàng ngày:
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:
“Mong tất cả những ai
Hữu tình có mạng sống
Kẻ yếu hay kẻ mạnh
Không bỏ sót một ai
Kẻ dài hay kẻ lớn
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
Loài được thấy, không thấy
Loài sống xa, không xa
Các loài hiện đang sống
Các loài sẽ được sanh
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc, an lạc.
Mong rằng không có ai
Lường gạt, lừa dối ai
Không có ai khinh mạn
Tại bất cứ chỗ nào
Không vì giận hờn nhau
Không vì tưởng chống đối
Lại có người mong muốn
Làm đau khổ cho nhau.
Như tấm lòng người mẹ
Đối với con của mình
Trọn đời lo che chở
Con độc nhất mình sanh
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh
Hãy tu tập tâm ý
Không hạn lượng rộng lớn.
Hãy tu tập từ tâm
Trong tất cả thế giới
Hãy tu tập tâm ý
Không hạn lượng rộng lớn
Phía trên và phía dưới
Cũng vậy, cả bề ngang
Không hạn chế, trói buộc
Không hận, không thù địch.
Khi đứng, hay khi đi
Khi ngồi, hay khi nằm
Lâu cho đến khi nào
Khi đang còn tỉnh thức
Hãy an trú niệm này
Nếp sống này như vậy
Được đời đề cập đến
Là nếp sống tối thượng”.
Khép lại nội dung chia sẻ về đề tài “Trải lòng từ bi”, tương tự với bài kệ vừa trích dẫn, chúng tôi cũng có một bài thơ để tóm gọn nội dung. Bài thơ này, giúp cho người đọc dễ ghi nhớ mà thực hành từ tâm. Cho dù chúng ta gặp phải bất cứ điều gì trong cuộc sống, đối diện với bao nhiêu cản trở đi nữa, thì cũng một lòng hướng về việc tu tập tâm từ. Bởi lẽ, chúng ta đã học, đã biết được những lợi ích lớn mà tâm từ mang lại. Do vậy, các vị hãy cố gắng thực tập để đạt được các giá trị tốt đẹp trên lộ trình tu học giải thoát.
Tu tập tâm từ
Từ tâm giải thoát hạnh lành
Khuyên người con Phật khéo hành khéo tu
Hằng ngày sử dụng công phu
Tích tập công đức điều nhu vuông tròn
Như cỗ xe, cứ địa sơn
Như tùy trú, tạo nếp mòn nhân gian
Khéo tác thành tánh rõ ràng
Tám lợi ích đẹp Đạo vàng xưa sau
Khi ngủ an lạc xiết bao
Khi dậy thanh thản ra vào nhàn vui
Không ác mộng, không ngậm ngùi
Người người ái mộ, đứng ngồi thảnh thơi
Phi nhân thương mến chào mời
Chư thiên kính trọng thời thời hộ tôn
Lửa, kiếm, thuốc độc vô hồn
Không gia hại, chẳng thua hơn, tị hiềm
Dù chưa đạt cảnh giới trên
Cũng về tọa ngự Phạm Thiên an bình
Từ tâm giải thoát tịnh minh
Sử dụng tu tập, hữu tình mãn sung
Như cỗ xe đắc địa hưng
Tích tập tùy trú, trùng phùng tướng tâm
Tâm từ vô lượng thậm thâm
Thế Tôn vô lượng hương trầm Như Lai
Niệm niệm gìn giữ trong ngoài
Kiết sử thắng giải miệt mài tịnh thanh
Điều ác lặng, hiện thiên xanh
Từ mẫn chí thiện, viên thành hạnh tu
Hiền Thánh nhiếp phục não ưu
Tịnh lạc công đức trượng phu quả lành
Ẩn sĩ vua chúa hóa hành
Tế tự người ngựa, nghiệp giành rủi may
Thắng trận ném cầu hiền tài
Không bằng mười sáu hiển bày từ tâm
Long lanh như ánh trăng rằm
Hơn ngàn sao sáng ẩn nằm dưới trăng
Không sân hận, không thù hằn
Chánh kiến tỏ rõ vượt ngàn mê si
Đường đời tự thấy mà đi
Từ tâm bất khả tư nghì phúc duyên.
Nội dung này được phiên tả từ bài giảng “Trải lòng từ bi”, do HT.Thích Giác Toàn giảng cho các hành giả trong Khóa tu Một ngày An lạc tại chùa Phổ Quang, Q.Tân Bình, TP.HCM, ngày 16/12/2012.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Chân lý ấy mầu nhiệm, nhưng không hề phức tạp
Phật giáo thường thứcMỗi người đều có một cánh cửa như vậy trong tâm. Cánh cửa ấy không khóa, chỉ bị bụi bám quá lâu khiến ta không nhận ra nó đã mở sẵn. Khi một người biết quay về, biết nhìn thẳng vào bản chất của thân tâm này, thì đó là khoảnh khắc họ mở mắt trí tuệ.
Giới vực tỉnh giác
Phật giáo thường thứcĐức Phật luôn nhắc nhở các tỳ kheo hãy hằng sống trong giới vực của mình, có nghĩa là hãy có chánh niệm không ngừng nghỉ với các đối tượng thân tâm. Ở đây, giới vực tỉnh giác có nghĩa đơn giản là hành thiền Minh Sát Niệm Xứ.
Nhờ niệm danh Bồ tát Quán Âm vãng sanh Tây Phương
Phật giáo thường thứcÐại sư Kim Trược thời Dân Quốc, người Ðài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu sau là được thọ giới. Ðược thầy dạy tụng chú Ðại Bi và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, ngài liền mỗi ngày tụng chú bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên trì thánh hiệu chưa hề gián đoạn.
Trong quá trình tu đạo chớ quên tâm ban đầu
Phật giáo thường thứcTâm học Phật ban đầu của mỗi người đều rất đơn thuần, chỉ nghĩ đến việc lợi mình, lợi người và thực hành hạnh Bồ-tát, nghĩ sẽ chứng quả thành Phật độ khắp chúng sinh. Nhưng trong quá trình tu hành, phần đông người đi lệch đường mà không tự biết; hoặc bị tiêm nhiễm tiếng tăm và lợi dưỡng cùng với tâm tham lam vinh dự hão huyền dấy khởi.
Xem thêm














