Từ điển phật học online
Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z

Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ cựu dịch theo Tự điển Phật học như sau:

có nghĩa là:

(舊譯) Chỉ sự phiên dịch của thời cũ. Đối lại với Tân dịch. Còn gọi là Cựu phiên, Cổ phiên, Cổ dịch. Về các kinh Phật được dịch ra chữ Hán, trong Xuất tam tạng kí tập quyển 1, ngài Tăng hựu đời Nam triều Lương, gọi các kinh được dịch trước thời Tây Tấn là Cựu kinh (kinh cũ), và gọi các kinh do ngài Cưu ma la thập dịch vào đời Hậu Tần trở về sau là Tân kinh (kinh mới), để so sánh sự sai khác của văn dịch. Nhưng, người đặc biệt nhấn mạnh sự bất đồng giữa cũ và mới là ngài Huyền trang đời Đường, ngài cực lực bài bác sự sai lầm về cách dịch đạt ý (dịch ý) của dịch cũ. Về sau, phong trào dịch sát được dấy lên, sự phân biệt về Hán dịch giữa cũ và mới bèn lấy thời đại ngài Huyền trang làm gạch nối. Nghĩa là, đại biểu cho những nhà dịch cũ là Cưu ma la thập đời Hậu Tần và Chân đế đời Nam triều Trần, còn đại biểu cho các nhà dịch mới là Huyền trang và Nghĩa tịnh đời Đường. Đồ biểu dưới đây so sánh một cách đại khái về lời dịch giữa mới và cũ: Tiếng Phạm Trước đời Tây Tấn Cưu ma la thập Huyền trang Paĩca-skandha Ngũ chúng ngũ ấm ngũ uẩn Bhagavat Chúng hựu Thế tôn Thế tôn Gandharva Càn đạp hòa Càn thát bà Kiện đạt phọc Avalokitezvara Quang thế âm Quan thế âm Quán tự tại Vimàlakìri Vô cấu xưng Tịnh danh Vô cấu xưng Bồ Tát Cứu Thoát Sự sai khác về lời dịch trong đồ biểu trên đây là vì trong lời dịch cũ có lối phiên dịch theo tiếng Tây vực, và kinh Phật ở Ấn độ cũng dần dần hướng tới Phạm ngữ hóa, cho nên ảnh hưởng đến Hán dịch, vì thế mà lời dịch có sai khác. Còn đứng về phương diện tính tướng học của tông Pháp tướng mà nói, thì văn dịch mới của ngài Huyền trang cố nhiên là thích hợp, nhưng, nếu đứng về phương diện tụng đọc trôi chảy mà nói, thì lời dịch cũ vẫn êm xuôi hơn. Hiện nay, số người sử dụng các kinh điển dịch cũ cũng rất nhiều. Ngoài ra, các bản dịch Tây tạng, ở thời kì đầu, phép đặt câu văn và lời dịch không nhất định, nên sự phiên dịch có hơi lộn xộn. Đến thế kỉ thứ IX, có ngài Thắng hữu (Phạm: Jinamitra) thống nhất lời dịch và cách hành văn, từ đó liền có lời cũ (Tạng:skad-rnin) và lời mới (Tạng: gsar - rnin) khác nhau. [X. Tống cao tăng truyện Q.3 - Phiên dịch danh nghĩa tập Q.1 - Tuệ lâm âm nghĩa Q.25 - Giáo uyển trích yếu Q.hạ].

Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.

Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.

Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:

ca ca ca ca bái ca bái cá biệt cá biệt tính ca bố la hương
Tự điển Phật học online được cung cấp bởi Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)