Từ điển phật học online
Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z

Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ nhất thiết hữu bộ theo Tự điển Phật học như sau:

có nghĩa là:

Sarvastivadah (skt). (A) Trường phái “Thực Hữu” (người ta cho rằng La Hầu La chính là sơ tổ của trường phái nầy). Trường phái nầy chủ trương vạn hữu đều là thực hữu. Nhất Thiết Hữu Bộ, vì bắt nguồn từ Thượng Tọa Bộ chánh truyền, xướng lên một bác nạn nghiêm khắc và thừa nhận rằng quá khứ và vị lai đều là thực hữu, bởi vì hiện tại có căn để của nó trong quá khứ và hậu quả của nó trong vị lai. Ngoài ra, phái nầy còn chủ trương rằng ba giai đoạn của thời gian phải hiện hữu tách rời nhau, vì những khái niệm về quá khứ và vị lai sẽ không xuất hiện trong chúng ta nếu không có những thực tại phân ly. Trong số các trường phái Phật Giáo dùng chữ Phạn thì Nhất Thiết Hữu Bộ gần với Thượng Tọa Bộ nhất. Với sự suy thoái của Thượng Tọa Bộ tại Ấn Độ thì trường phái Hữu Bộ phải đứng hàng đầu trong cuộc chiến với phái Đại Thừa Luận sư Thế Thân (Vasubandhu), người đã viết bộ A Tỳ Đàm Câu Xá Luận, là một gương mặt lớn trước khi ngã sang phái Đại Thừa dưới ảnh hưởng của người anh là Vô Trước (Asanga). Trường phái nầy phát triển mạnh tại Ấn Độ, trong các vùng Punjab và tỉnh biên giới phía bắc, nay là Pakistan, và hoàng đế Ca Ni Sắc Ca là một nhà bảo trợ lớn cho trường phái nầy (see Ca Ni Sắc Ca). Giống như trường phái Thượng Tọa Bộ, phái nầy không công nhận những quyền năng siêu nhiên mà Đại Chúng Bộ gán cho Đức Phật cùng các Bồ Tát. Họ tin rằng chư Thiên là những người có cuộc sống thần thánh, và ngay cả những người ngoại đạo cũng có thể có những quyền năng siêu nhiên. Họ tin là có thân trung ấm, một sự tồn tại giữa đời nầy và đời tiếp theo. Họ cho rằng Bồ Tát và A La Hán cũng không thoát khỏi hậu quả của nghiệp trong quá khứ. Họ tin rằng không có một chất liệu trường cửu nào trong con người, dù rằng họ thừa nhận thực tại trường cửu của vạn pháp. Cũng như Thượng Tọa Bộ, họ tin vào sự đa nguyên của các yếu tố trong vũ trụ. Theo họ thì có 75 pháp, trong đó có 72 pháp hữu vi, có sanh có diệt, là những hợp thể; và ba pháp vô vi, không sinh không diệt, đó là hư không (akasa), đoạn diệt nhờ trí tuệ (pratisankhya-nirodha), và đoạn diệt không nhờ trí tuệ, mà do quá trình tự nhiên vì thiếu nhân duyên (apratisankhya-nirodha—The Realistic School (claimed Rahula was the founder) which asserted the reality of all phenomena. The Sarvastivada School has its origin in the orthodox Theravada School, raises a rigorous objection and asserts that the past and the future are real, because the present has its root in the past and its consequence in the future. Besides, it holds that the three periods of time ought to exist separately, because the notions of past and future would not occur in us without separate realities. Among the Buddhist schools which adopted Sanskrit for their literary medium, the Sarvastivadins come closest to the Sthaviravadins. With the decline of the Sthaviravadins in India this school bore the brunt of the battle against the Mahayanists. Acarya Vasubandhu, the writer of the Abhidharma-kosa, was a great champion of this school before he was converted to Mahayanism under the influence of his brother Asanga. This school flourished in India in the Punjab and the North-West Frontier Province, now in Pakistan, and king Kanishka, in the first century A.D., was its great patron (see Ca Ni Sắc Ca in Vietnamese-English Section). This school, like the Sthaviravadins, denied the transcendent powers ascribed to the Buddha and the Bodhisattva by the Mahasanghikas. It was their faith that holy life was possible for gods and that even heretics could have supernatural powers. They believed in the antara-bhava, an interim existence between this life and the next. They maintained that Bodhisattvas and Arhats were not free from the effects of past actions. They believed in the absence of any permanent substance in an individual (nairatmya), though they admitted the permanent reality of all things. Like the Sthaviravadins, they believed in the plurality of elements in the universe. According to them, there were seventy-five elements, seventy-two of them compounded (samskrta) and three uncompounded (asamskrta), which were akasa or space, cessation through knowledge (pratisankhya-nirodha), and cessation not through knowledge, but through natural process of the absence of required conditions (apratisankhya-nirodha)—See Bảy Mươi Lăm Pháp Câu Xá Tông. (B) Lịch sử và sự phát triển của Nhất Thiết Hữu Bộ—History and development of the Sarvastivada School: (Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo—According to Prof. Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist Philosophy). 1) Sự có mặt của Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) có thể được nhận thấy trong lịch sử Ấn Độ, kéo dài từ cuộc kết tập kinh điển Phật Giáo dưới thời vua A Dục (khoảng năm 200 trước Tây Lịch) cho đến khi Nghĩa Tịnh du hành sang Ấn Độ (671-695 sau Tây Lịch). Trong tập Đối Biện (Katha-Vatthu) được soạn thảo dưới thời vua A Dục, Hữu Bộ hình như chiếm một địa vị vững chắc giữa những phần tử tranh biện. Cứ điểm chính của bộ phái nầy được giảng dạy trong tinh túy của nó và cuối cùng được khai triển thành một hệ thống hoàn toàn được gọi là Tỳ Bà Sa hay Phân Biệt Thuyết (Vaibhasika): The existence of this Sarvastivada School can be seen in Indian history from the time of the Buddhist Council held during Asoka's reign (about 200 B.C.) down to the time of I-Tsing's travel in India (671-695 A.D.). In the Kathavatthu Controversy compiled in the time of King Asoka, Sarvastivada seems to have occupied a strong position among the disputing parties. The principal seat of this school was in Kashmir where its doctrine was taught in its purity and it was finally developed into an elaborate system known as the Vaibhasika. 2) Theo thời gian, một chi lưu khác của Phân Biệt Thuyết được thiết lập ở Kiện Đà La và hình như rất khác biệt với phái Kashmir trong một vài quan điểm: In time another branch of the Vaibhasika was established in Gandhara and it seems to have differed from that of Kashmir in its opinion to some extent. 3) Một trường địa dư của bộ phái nầy rộng lớn hơn bất cứ một bộ phái nào khác, vì phổ biến khắp xứ Ấn Độ, đến cả vùng phía bắc là Persia, Trung Á, và tận miền nam là Sumatra, Java, Đông Dương và toàn thể Trung Hoa: The geographical extent of this school was much greater than that of any other school as it was found in all India, its northern frontier, Persia, Central Aisa, and also to the south in Sumatra, Java, Cochin-China and all of China. 4) Nhất Thiết Hữu Bộ liên hệ chặt chẽ với bộ phái chính truyền là Thượng Tọa Bộ. Nó tách khỏi bộ phái nầy lần đầu tiên có lẽ trước cuộc kết tập dưới thời vua A Dục. Cái ý niệm cho rằng tất cả các pháp đều hiện thực có thể ngược dòng từ thời đại của chính Đức Phật, bởi vì từ ngữ “Sabha-atthi” (tất cả đều hiện thực) được thấy ngay trong Tăng Chi Bộ Kinh: The Sarvastivada School was closely related to the orthodox Theravada School, from which it was first separated probably before the Council of King Asoka. The idea that all things exist may go back to the time of the Buddha himself, for the word 'sabban-atthi' (all things exist) is found already in the Samyukta-nikaya. 5) Bản văn A Tỳ Đạt Ma chính yếu của bộ phái nầy là Phát Trí Luận (Jnanaprasthana) của Ca Đa Diễn Ni Tử (Katyayaniputra) cũng được gọi là Bát Kiền Độ Luận (Asta-Grantha), có lẽ được tập thành rất sớm, khoảng năm 200 trước Tây Lịch. Những tác phẩm phụ theo của bộ phái nầy mà người ta gọi là Lục Túc Luận, hình như là chú giải chuyên biệt về chủ đề chứa đựng trong đó, vẫn còn được lưu truyền cho đến hôm nay: The principal Abhidharma text of this school was Katyayaniputra's Source of Knowledge (Jnana-prasthana), otherwise called Eight Books (Asta-grantha), probably compiled as early as 200 B.C. The subsequent works of the school, also called the Six Padas (Six Legs), seem to have been a special exegesis (Vibhasa) on the subject-matter contained in it. (C) Khi phán xét từ những thảo luận ghi trong văn học Đại Tỳ Bà Sa Luận, điều vô cùng quan trọng hình như được đặt trên sự phân ly của ba thời và thực tại chính của mỗi thời. Tuy nhiên, thực tại chính của ba thời không có nghĩa là ba thời tự chúng thường hằng, cũng không có nghĩa là tất cả các pháp đều thực hữu trong quá khứ và vị lai, cũng như thực hữu trong hiện tại; nhưng không kéo dài từ thời gian nầy đến thời gian khác. Liên hệ với lý thuyết nầy có bốn luận chứng mà ngài Thế Thân đã trích dẫn từ nền văn học Luận Tạng—Judging from the discussions recorded in the Mahavibhasa literature, great importance seems to have been laid on the separateness of the three periods of time and the reality of each. The reality of the three periods of time, however, does not mean that the three periods themselves are eternally extant, nor does it mean that time is a real substance. It means that all things or elements are real in the past and in the future as they are in the present, but without enduring from one period to another. In connection with this theory, four arguments are quoted by Vasubandhu from the Exegetic Literature—See Tứ Luận Chứng. (D) Theo ngài Thế Thân (Vasubandhu) trong Bảy Tác Phẩm của Ngài Thế Thân, thuyết của Nhất Thiết Hữu Bộ không thấy có trong những giáo thuyết thuần túy của Phật giáo, mà là một tân thuyết của nền văn học Luận Tạng của học phái A Tỳ Đàm, chống lại Kinh Lượng Bộ là phái bám chặt vào những bài thuyết pháp của Phật và chủ trương rằng chỉ có hiện tại là hiện hữu—According to Vasubandhu in Seven Works of Vasubandhu, written by Stefan Anacker, the theory of Sarvastivada is not found in the genuine discourses of the Buddha, but it is an innovation of the Vibhasa (Exegetic) Literature of the Abhidharma School. The opinion of the Abhidharmikas is against the Sautrantic School which clings solely to the discourses of the Buddha and maintains that only present exists. (E) Các trường phái của Nhất Thiết Hữu Bộ—Branches of the Sarvastivada: 1) Nhất Thiết Căn Bản Bộ: Mulasvarvastivadah (skt). 2) Ca Diếp Duy Bộ: Kasyapiyah or Suvarsakah. 3) Pháp Mật Bộ: Dharmagupta. 4) Di Sa Tắc Bộ: Mahisasakah or Mahisasikah. 5) Phân Biệt Thuyết Bộ: Vibhajyavadinah. 6) Đa Văn Bộ: Bà Thu Lâu Đa Bộ—Bahusrutiyah.

Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.

Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.

Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:

na na na na a lại da mạn đà la na bà ma li na bà ma lợi na bà ma lợi na da na da
Tự điển Phật học online được cung cấp bởi Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)