Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ thủy giác theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(始覺) Đối lại: Bản giác. Sự giác ngộ do quá trình tu tập hậu thiên mà đạt được. Luận Đại thừa khởi tín cho rằng thức A lại da có 2 nghĩa là Giác và Bất giác, Giác lại có Thủy giác và Bản giác khác nhau. Trong đó, trải qua quá trình tu tập hậu thiên, dần dần đoạn trừ vọng nhiễm từ vô thủy đến giờ mà biết được nguồn tâm tiên thiên, gọi là Thủy giác, cũng tức là phát tâm tu hành, lần lượt sinh khởi trí đoạn hoặc, phá vô minh, trở về bản tính thanh tịnh của Bản giác. Đại thừa cho rằng tâm người ta xưa nay vốn lặng lẽ bất động, không sinh không diệt, thanh tịnh vô nhiễm, gọi là Bản giác(tâm thể giác biết xưa nay vốn lìa niệm); sau vì gióvô minh dấy động, sinh ra các hoạt động ý thức thế tục, từ đó có các sự sai biệt ở thế gian, đó gọi là Bất giác; cho đến khi được nghe Phật pháp, mở ra Bản giác, huân tập Bất giác, đồng thời dung hợp Bất giác và Bản giác làm một, tức gọi là Thủy giác. Luận Đại thừa khởi tín lại chia Thủy giác làm 4 giai vị, đồng thời phối hợp 4 giai vị này với các giai đoạn tu hành của Bồtát Đại thừa, đó là: 1. Bất giác: Giai vị Thập tín(Ngoại phàm vị) tuy đã biết quả khổ là do các nghiệp ác mang lại, nên thân, khẩu không còn tạo tác các việc ác, nhưng vẫn chưa sinh khởi trí đoạn hoặc. 2. Tương tự giác: Hàng Nhị thừa và Bồtát giai vị Tam hiền tuy đã xa lìa ngã chấp, biết lí ngã không, đoạn trừ các phiền não tham, sân, kiến, ái.. nhưng vẫn chưa lìa bỏ ý niệm phân biệt pháp chấp. 3. Tùy phần giác: Hàng Bồtát từ Sơ địa trở lên đến Địa thứ 9 đã xa lìa niệm pháp chấp, rõ biết tất cả pháp đều do tâm biến hiện, tức sự giác biết tùy theo cảnh giới tu chứng và địa vị chuyển lên mà ngộ 1phần lí chân như pháp thân. 4. Cứu cánh giác: Hàng Bồtát Địa thứ 10 đã đầy đủ nhân hạnh, dùng tuệ giác tương ứng với1niệm để giác biết chỗ sơ khởi của tâm, đồng thời xa lìa niệm vi tế, thấy suốt toàn bộ tâm tính. Theo luận Thích ma ha diễn thì giáo nghĩa của Mật giáo cũng chia Giác tính làm 4 thứ, trong đó 2 thứ trước tức là Bản giác và Thủy giác, rồi lại y cứ theo sự nhiễm, tịnh khác nhau của mỗi thứ mà chia thành Thanh tịnh bản giác, Nhiễm tịnh bản giác, Thanh tịnh thủy giác, Nhiễm tịnh thủy giác..., đồng thời nói rõ về mỗi thứ mà luận chỉ, ý thú khác với thuyết của luận Đại thừa khởi tín được trình bày ở trên. Mật giáo lại gọi Hiển giáo là Thủy giác tông và gọi tông mình là Bản giác tông. Vì Mật giáo cho rằng Hiển giáo phải tu hành trải qua nhiều kiếp mới giác ngộ được bản chân, trừ bỏ mê tình mà trở về chân lí vô tướng. [X. luận Thích ma ha diễn Q.3; Đại thừa khởi tín luận nghĩa kí Q. trung, phần đầu]. (xt. Bản Giác).
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
tả tà tà tá tả ta tạ tà tả taTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)