Từ tiếng tụng Kinh đến niềm tin nơi Phật

Có ý kiến cho rằng, Phật tử mà không công phu kinh kệ chút nào thì chỉ là Phật tử... khơi khơi thôi. Quả thật những Phật tử này là khá nhiều, và tôi cũng cảm thấy hơi... dị, vì tôi xem như chẳng thuộc kinh nào cho ra hồn. Ngẫm lại, ý kiến đó cũng có lý chứ, vì kinh Phật là từ Pháp của Phật, bắt nguồn từ những lời dạy của Phật, cho nên người Phật tử thuộc kinh, tụng kinh, không nhiều thì ít, là chuyện bình thường.

Tôi cứ khơi khơi như vậy, không lưu tâm đến kinh kệ, giai do là tôi cứ trôi theo dòng thời gian, dầu chốn chùa chiền là quen thuộc, nơi tôi đã dự không biết bao nhiêu lễ nghi, nghe tụng không biết bao nhiêu kinh, kệ, chú, sám. Càng lớn lên, càng học nhiều thì tôi chạy theo chuyện học, kèm theo đó là sở thích tuổi trẻ, và chuyện học thuộc lòng trong đời thì tôi lại dành cho, nào là định lý, định đề, định luật, công thức, nào là thơ văn, ca dao, tục ngữ, bài hát... Tôi còn nhớ thời học năm cuối của trung học phân ban, chuẩn bị thi tú tài, thế hệ tôi thường hay đùa bạn bè lớp ban A (khoa học thực nghiệm), nhất là nữ sinh (mấy cô học chăm lắm!): quanh năm cứ đem sách Vạn vật ra lẩm nhẩm học thành tiếng, như tụng! Khi ra làm việc, môi trường xã hội giao tiếp của tôi gồm đa số những người không biết kinh Phật. May sao, qua bên kia sườn dốc của cuộc đời, còn có cái gì mãi mãi trong tâm để mình sống cho ra người con của Phật. Và đến khi này, tôi mới có những đạo hữu để mà tôi hơi bị... dị. Trong không khí trang nghiêm của buổi lễ tại chùa, hòa với tiếng tụng kinh của quý vị Tăng Ni, những người bạn bên cạnh tôi cũng tụng đàng hoàng, trang nghiêm, chí thành. Tôi lại thích hơn nữa buổi tụng kinh ở chùa, với số người vừa đủ làm ấm cúng chánh điện, và âm thanh vừa phải, không có khuếch đại âm thanh càng tốt, hoặc chỉ dùng vừa đủ phương tiện âm thanh. Mầu nhiệm thay thanh âm của Phật truyền giữa đại chúng!

Từ tiếng tụng Kinh đến niềm tin nơi Phật 1
Ảnh minh hoạ.

Hèn chi các đạo hữu đó sống giản dị, sống an lạc giữa cuộc đời, dầu có khi gian khó, bất trắc không phải là ít...

Tôi lại liên tưởng đến một người dì (đã mất), tuy không bà con gần, nhưng thân thiết, xem mẹ tôi như chị ruột. Buôn gánh bán bưng khổ lắm, thế mà dì lại mê lên đồng. Ở đâu có hầu đồng là đi, không nề hà chi tiêu tốn kém. Bỗng nhiên đến một lúc nào đó, dì có cơ duyên với chùa, dì đến với Phật, không đi lên đồng nữa, và ăn chay trường. Không thể ngờ được, một chữ không biết, thế mà theo đạo tràng, dì thuộc kinh kệ làu làu, rất nhanh, và cuộc đời dì vui thấy rõ.

Người lớn như thế, còn người nhỏ thì sao? Chúng tôi đến thăm chùa, gặp chú tiểu nhỏ mới vào chùa, ngộ ngộ. Thầy tri sự gọi lại: “Thuộc chú Đại Bi chưa?”, thế là chú tụng một mạch, không nghĩ. Chú còn thuộc kinh Di Đà nữa.

Bà dì của tôi và chú tiểu mới vào chùa chắc chắn không hiểu rõ ý nghĩa của kinh, kệ, chú, sám, và ngay cho đến những đạo hữu thân quen của tôi cũng khó mà cho rằng mình thông hiểu hoàn toàn những kinh kệ như thế, nhất là kinh kệ thuộc Hán tạng. Những năm sau này, nổi lên dư luận muốn làm sao kinh được chuyển hóa Việt ngữ cho dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhập tâm, và cũng đã có những chùa, những nơi tu tập đã phần nào thực hiện việc này. Tương lai sẽ xảy ra việc thẩm định, chọn lọc và chấp nhận, mà kinh vẫn thiêng liêng như lưu giữ trong tạng thức lâu dài, từ đời này qua đời khác.

Dì tôi không thông hiểu kinh kệ, nhất là kinh kệ từ gốc Hán tạng mà vẫn thuộc, vẫn tụng, vậy thì phải chăng niềm tin Phật của dì tôi là mù quáng, là chẳng có giá trị, là không có chút trí tuệ? Tôi không nghĩ như vậy, trước hết vì dì, cũng như tôi, đặt lòng tin vào Đức Phật, vị Giác ngộ tuyệt đối có thật, bậc Đạo sư có thật của không biết bao nhiêu người từ hơn hai ngàn năm trăm năm nay, và giáo pháp của Phật tuy vi diệu nhưng cũng thực tiễn để mỗi người, tùy theo căn cơ, đều học và tu được. Thật ra, nói dì tôi không biết ý nghĩa kinh kệ thì cũng hơi tội, vì ít ra dì tôi cũng như mọi Phật tử khác, đều hiểu lẽ vô thường, tin nhân quả, đều hiểu hai chữ nam-mô trong tu tập hàng ngày, và đều thấm một số bài, chẳng hạn bài nguyện sám hối, đơn giản mà xúc động, thiêng liêng:

“... Đệ tử lâu đời lâu kiếp / Nghiệp chướng nặng nề / Tham giận kiêu căng / Si mê lầm lạc / Ngày nay nhờ Phật /Biết sự lỗi lầm/ Thành tâm sám hối/ Thề tránh điều dữ/ Nguyện làm việc lành...”.

Tu tại gia mà cứ nghĩ, cứ làm như vậy, thì còn gì hơn nữa? Song hành với tụng kinh, niệm Phật, dì tôi thực hiện phóng sinh, làm công quả ở chùa. Dì tôi tin Phật và đã chứng thực lòng tin bằng chính mình được sống an lạc, bằng yêu thương mọi người và chúng sinh, cũng có nghĩa chứng thực đạo Phật là đạo “đến để mà thấy”. Dì tôi tụng kinh và hành trì miên mật thì chắc chắn có ứng nghiệm trong tâm. Ứng nghiệm này ở khắp nơi nơi, với đủ loại người, mọi màu da, tiếng nói.

o0o

Thế giới ngày nay trải qua nhiều đổi thay nhanh chóng, trong đó, nhiều trí thức và giới trẻ phương Tây nhận ra bế tắc về mặt tâm linh và ý nghĩa cuộc sống, đã hướng về phương Đông, từ đó họ nhận ra đạo Phật là giải đáp có ý nghĩa cho cuộc đời, cho tình yêu thương liên đới giữa người và người, người và thiên nhiên, người và mọi chúng sinh. Không chỉ tín đồ đạo Phật gia tăng trong xã hội phương Tây, không chỉ nhiều người nghiên cứu, hành thiền gia tăng, mà cái chính là các khái niệm tốt đẹp của đạo Phật như là hương hoa tỏa khắp bốn phương.

Khởi đầu từ những Phật tử gốc châu Á (Nhật, Hoa, Tây Tạng, Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Việt Nam...), Phật tử Âu Mỹ Úc ngày càng đông, và các chùa, thiền viện cùng trì tụng kinh kệ, như pháp âm của Phật tỏa khắp nơi trên thế giới. Dầu ở bất cứ nơi đâu, khi tụng kinh với định lực tuyệt đối thì “tâm ấy là tâm Phật”. Tuy nhiên, dầu không đạt được hoàn cảnh như thế, dầu bạn mới ở đâu đó ngoài ngưỡng cửa của chùa, thì “Chỉ cần được giới thiệu những ý tưởng Phật giáo là bạn có thể cảm thấy từ bi hơn, dầu bạn là Phật tử hay không là Phật tử”. Chuyện đơn giản như vậy sao? Có tin dễ dàng như vậy không?

Những nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Stanford (Mỹ), cùng với những nhà khoa học từ Bỉ và Đài Loan, nhận thấy rằng giới thiệu những khái niệm về đạo Phật cho những người có tín ngưỡng khác nhau, có hiệu quả không những trong việc xóa bỏ định kiến mà còn khơi dậy lòng quan tâm xã hội, nghĩa là gây cho họ ý thức về trách nhiệm đối với người khác, khiến họ cảm nhận lòng từ bi.

Công trình nghiên cứu này, được đăng trên báo Personality and Social Psychology Bulletin (Bản tin về Nhân cách và Tâm lý Xã hội học) số tháng 4 năm 2014, minh họa một hiện tượng được gọi là priming (tạm dịch là “bồi dưỡng”). Priming xảy ra khi một người được giới thiệu một số từ hay hình ảnh (trong trường hợp này là các từ Phật) các từ này sau đó sẽ ảnh hưởng vào tiềm thức của họ và thay đổi cách suy nghĩ hay hành vi của họ. Trường hợp này không cần những bài kinh, chỉ cần những từ về Phật pháp rất căn bản.

355 người tham gia cuộc thí nghiệm này được chia ra thành ba nhóm tùy theo tín ngưỡng của họ: tín đồ Cơ Đốc phương Tây, người phương Tây thực tập đạo Phật và người Đài Loan có nền tảng Phật Lão. Ba nhóm này lại được chia ra thành nhiều nhóm nhỏ hơn nữa, trong đó một số người sẽ được “bồi dưỡng” với những từ tôn giáo và một số người khác sẽ được giới thiệu những từ không có tính cách tôn giáo, nhưng cũng có tính cách tích cực (chẳng hạn như “hoa”, “mặt trời”, “tự do”). Sau đó, tham dự viên làm một bài trắc nghiệm mục đích để xem thử họ có định kiến về các nhóm vô thần hay các tôn giáo khác họ không.

Trong tất cả mọi nhóm, kết quả của một trò chơi chữ tiếp sau đó cho thấy người nào được “bồi dưỡng” những từ như Phật, Pháp, Giác ngộ... đều tỏ ra có ít định kiến về những người châu Phi hay người theo Hồi giáo, ít hơn những người được giới thiệu những từ trong đạo Cơ Đốc hay không liên hệ đến tôn giáo nào.

Những người được “bồi dưỡng” những từ Phật đều có điểm cao hơn trong cuộc thi trắc nghiệm về lòng quan tâm xã hội. Những kết quả này cũng được thấy rõ rệt hơn trong những người có điểm cao về lòng khoan dung.

Những hành vi tỏ lòng quan tâm xã hội thường được xem là những giá trị căn bản của đạo Phật, bao gồm sự chấp nhận những lối nhìn khác với lối nhìn của mình, tính phổ quát và tính liên đới giữa mọi chúng sinh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu này không có ý nói đạo Phật là “tốt hơn” các tôn giáo khác.

Magalli, một người đang theo học một chương trình hậu đại học tại Đại học Stanford, và là một người trong nhóm tác giả của công trình nghiên cứu này bảo phóng viên báo The Huffington Post rằng: “Chúng tôi muốn chứng minh rằng những khái niệm chính của đạo Phật đi đôi với sự chấp nhận mọi sự khác biệt của các nền văn hóa khác nhau. Điều này có nghĩa rằng phương Tây có một cái nhìn tích cực về đạo Phật như là một tôn giáo đề cao tính khoan dung và từ bi, ít nhất là trong đầu của mỗi người”.

Những công trình khoa học như thế này rất cần để những người phương Tây và những người chuộng thực tế tin vào giá trị của đạo Phật, và bước đầu củng cố niềm tin Phật, xem đạo Phật như là lẽ sống đem đến an vui nội tại cho mỗi người và hòa ái cho xã hội, trong một thế giới đầy biến động ngày nay. Riêng tôi, cứ nghĩ về dì tôi và cứ nhìn về các đạo hữu quen thuộc là tôi cứ theo đạo Phật như thế, như thế.

Tài liệu sử dụng:

Bài báo trên The Huffington Post ngày 8/4/2015: “Just Being Exposed To Buddhist Ideas May Make You Feel More Compassionate, Study Finds”, tác giả Carolyn Gregoire.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Giấc mơ theo duy biểu học

Phật giáo thường thức 21:19 28/11/2025

Hình như mọi người ai cũng từng nằm mơ, nhưng ít người hiểu rõ về giấc mơ...

Nói về Tứ diệu đế

Phật giáo thường thức 18:20 28/11/2025

Người sống trên đời mà chưa biết về Tứ diệu đế thì thật đáng tiếc. Nghe và hiểu sâu sắc về Tứ diệu đế thì quả không uổng một kiếp làm người. Đây là điều chân thật.

Mặt trời tỏa chiếu

Phật giáo thường thức 18:10 28/11/2025

Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Hại vật phải chịu quả báo gấp mười lần

Phật giáo thường thức 16:29 28/11/2025

Huyện Trấn Giang thuộc tỉnh Giang Tô có người tên Lăng Khải, tên tự là Tử Chánh. Vào năm Quý Mão thuộc niên hiệu Khang Hy [1663] ông ta vì ghét con chó của người hàng xóm hung dữ cắn người, liền dụ nó vào một ngõ hẹp rồi bít lối ra, muốn bỏ đói cho nó chết đi để dứt mối họa.

Xem thêm