Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ tư, 07/06/2023, 12:01 PM

Ảnh hưởng của giáo lý Tịnh độ tông ở Việt Nam

Trong suốt quá trình hoằng dương chính pháp, hội nhập và phát triển đạo pháp ngày càng ăn sâu trong tâm thức của người dân Việt như từ thời Lý – Trần đạo Phật cũng từng được xem là quốc giáo. Tịnh độ tông được phát triển mạnh mẽ.

Điều này được thể hiện qua tác phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông (1218-1277) có một đề mục “Niệm Phật luận” và “Lục thời sám hối khoa nghi” để nói lên tầm quan trọng và lợi ích của phương pháp niệm Phật; tu Tịnh độ là nhờ vào nguyện lực chứ không phải do nghiệp lực, tu có thể chuyển hóa thân tâm, sám hối để tiêu tan nghiệp chướng báo chướng. Như thiền sư Tánh Nhiên có viết trong khuyến phát niệm Phật có câu:

“Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô,

Như sương tan nắng như hồ nước trong

Niệm Phật để đặng tấm lòng

Kéo mà trắc ẩn mắc vòng gian nan.

Niệm Phật Cực Lạc hân hoan,

Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi”.

Và được thể hiện ngay hiện trong đời sống hiện tại này, trong tâm của mỗi chúng ta chứ không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian này. Với ánh sáng trí tuệ và lòng từ bi của đạo pháp ngày càng có xu hướng lan tỏa mạnh mẽ trên toàn cầu, thích ứng mọi hoàn cảnh và điều kiện sống trong thời đại công nghệ 4.0 ngày càng phát triển không ngừng nghỉ. Điều đó giúp chúng ta nhận biết rằng đạo Phật không hể cổ hủ cứng nhắc, bảo thủ, nhàm chán mà là nhanh nhẹn, uyển chuyển tùy duyên hóa độ, thích nghỉ cùng sự thay đổi phong tục tập quán, vùng miền, địa lý từng nơi. Vì vậy, đạo Phật được xem là nguồn sống tâm linh, hơi thở của dân tộc. Pháp môn niệm Phật chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của đệ tử Phật. Ngay từ đầu du nhập, câu “Nam mô A Di Đà Phật” đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam, đã phần nào nói lên được tấm lòng từ bi bao la, vị tha vô ngã bao dung độ lượng của người đệ tử Phật, rất gần gủi với nếp sống hiền lương của người dân Việt.

Kinh Đại Tập: “Trong thời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát luân hồi”.

Kinh Đại Tập: “Trong thời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát luân hồi”.

Pháp môn này phát triển khá là phổ biến tại Việt Nam từ những thập niên đầu mới du nhập cho đến thời cận hiện đại ngày nay nhằm khẳng định sự vi diệu thù thắng của tông Tịnh độ. Đó là các vị chư tôn đức hòa thượng luôn xiển dương pháp môn dễ tu dễ chứng, phù hợp mọi thành phần trong xã hội một cách linh hoạt, phổ biến, ứng dụng nhiều trong thực tiễn: HT.Phước Huệ, HT.Khánh Anh, HT.Thiên Hoa, HT.Trí Tịnh, HT.Thiền Tâm,... các Ngài đều là những bậc chân tu khả kính, tung làm thạch trụ, hết lòng phụng sự đạo pháp, suốt đời chuyên tu Tịnh độ và khuyên người niệm Phật.

Vào thời Lý – Trần, xã hội rất chú trọng vào pháp môn Thiền học “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Còn xã hội ngày nay, cũng có nhiều pháp môn tu học nhưng pháp môn Tịnh độ được xem là tất yếu, dễ tu dễ chứng, phù hợp với mọi người “Thiền sư Tánh Thiên, Khuyến phát niệm Phật hoàn cảnh “niệm Phật tức niệm Tâm” đạt đến thể quán “sinh không”. Chính là “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ”. Nên ở các tự viện, chùa chiền,... thường xuyên tổ chức các khóa tu như khóa tu Phật thất, tam thời hệ niệm, tam bộ nhất bái, niệm Phật, khóa tu dành cho mọi đối tượng trong xã hội hay trong thời khóa tu học hằng ngày đều có thực hành Thiền – Tịnh – Mật. Đặc biệt, pháp môn niệm Phật được mọi người tin và thực hành; không chỉ là dành riêng cho người xuất gia và tại gia mà còn cho cả người không tôn giáo đều nhớ danh hiệu Phật và thực hành. Như khi vào chùa mọi người củi đầu chào nhau bằng câu niệm Phật “A Di Đà Phật”. Trước lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn niệm một niệm đến mười niệm thì liền được vãng sinh. Ngoài tự lực thì cũng có trợ duyên bởi tha lực để giúp con người ta giữvững lòng tin, ý chí chiến thắng mọi ma chướng gây nên, để không bị ràng buộc níu kém trước lúc nhắm mắt xuôi tay lìa cõi trần thế này. Nên đã thành lập ra nhiều đạo tràng hộ niệm, ở đâu cần thì mọi người sẽ đến trợ duyên.

Mặt khác, Tịnh độ tông được thực hiện trên nhiều phương diện khác nhau như hướng dẫn mọi người tu niệm Phật, giữ tâm yên tĩnh trước mọi nghịch cảnh trong cuộc sống, khuyến khích mọi người nghe giảng, học Phật, tu Phật để hiểu hơn về giáo lý Phật thừa, đi đúng chính pháp để không rơi vào cảnh mê tín dị đoan.

Vào thời kỳ du nhập, Phật giáo Việt Nam nhuốm màu sắc quyền năng. Mật giáo trở thành phương tiện hóa đạo hữu hiệu. Ở thời đại hưng thịnh của Phật giáo, sông núi thanh bình, người người hít thở không khí bình yên sâu lắng của đất trời để tìm về cội nguồn tâm thức, Thiền tông hưng thịnh.

Còn giai đoạn hiện nay, chiến tranh lan tràn thế giới, bệnh dịch hoành hành, môi trường nhiễm độc,... người ta thích mơ tưởng đến một thế giới thanh tịnh, bình yên, không chiến tranh chết chóc và Tịnh độ Cựu Lạc được giới thiệu như một cõi lý tưởng nên người người hưởng ứng tin tưởng và hướng về. Điều này chúng ta từng thấy rõ nét nhất là vào thời của Hư Vân hòa thượng ở Trung Quốc, chiến tranh xảy ra liên tục, các tăng sĩ bắt hoàn tục, bệnh dịch xảy ra khắp nơi, dân chúng đói khát, kẻ thì lợi dụng áo tu sĩ làm danh 6 chốn thiền môn, ăn mặn, bóc lộc thuế... nên đời sống nhân dân rất khốn đốn. Chính Ngài Hư Vân đã quật dậy tinh thần từ bi bác ái yêu thương nhân dân, được sự trọng dụng của hoàng hậu Từ Hy Ngài đã đưa ra những đường lối chính sách yêu nước để cứu nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than; cải cách lại những ngôi chùa bị kẻ xấu làm loạn; cứu nhân độ thế giúp chúng sinh biết quay đầu hướng thiện, đi đúng con đường chân chính, xa lánh sự mê tín dị đoan, làm từ thiện cứu dân thoát cảnh nạn đói, bệnh tật,... Phật không ở đâu xa, mà Phật thị hiện ngay trước mặt. Ngài được người kính trọng và tôn sùng là vị Phật sống. Trong giai đoạn này, Ngài không thể hướng dẫn mọi người tu thiền, vì sẽ không hiệu quả nên Ngài đã linh động đưa pháp môn niệm Phật đến gần với quần chúng, dù ở trong hoàn cảnh nào cũng nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng; nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ chính là mục đích hướng đến quả vị chứng đắc tam vô lậu học đi trên con đường trung đạo; phương pháp nhập thế đưa đạo vào đời; đồng hành và hướng dẫn mọi người biết yêu thương chia sẻ, bố thí cúng dường, tu phước tu tuệ,... những việc làm này gọi chung là Phật giáo tại nhân gian chứ không xa vời nơi vô hình không ai trong thấy.

Ở đây, ngoài thời gian tu học miên mật rốt ráo thì cũng đem đạo pháp đến gần với mọi người, giảng pháp độ sinh, an lạc ngay trong giây phút hiện tại. Chứ nếu chúng ta chỉ cần buông lung, xao lãng chạy theo những danh vọng lợi dưỡng, cám dỗ của tài, danh, sắc, thực, thụy,... không nhớ nghĩ và thực hành đúng những lời di huấn của Phật Đà thì chúng ta tự chuốt lấy khổ đau, xa đọa không biết quay đầu, trầm luân trong vòng sinh tử. Chúng ta giống như chiếc thuyền rách ở giữa sóng to gió lớn nhưng vẫn không bị chìm đắm là nhờ Phật pháp hằng ngày nhắc nhở, khuyến khích, sách tấn chúng ta “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”. Cho nên, ngày nay tông Tịnh độ ngày càng phát triển về mọi mặt cho đến tâm linh.

Thiền – Tịnh luôn đồng hành cùng nhau, không tông phái nào bác bỏ tông phái nào. Thiền tông không bác bỏ Tịnh độ, trong các thời khoá tụng inh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng mà chính là phá chấp tà kiến, vọng tâm điên đảo hiểu sai chính pháp. Nay nhờ có thiền định nên luôn tỉnh táo phát huy chính kiến và chính tư duy để thực hành đúng giáo lý

Phật thừa với tông chỉ “chỉ thẳng lòng người, thấy tính thành Phật”. Tịnh độ tông cũng không bác bỏ tông phái nào đó là điểm đặc sắc thiết yếu của bản môn với tông chỉ “một đời vãng sinh, được bất thối chuyển”. Hay Hoa Nghiêm “Lìa thế gian, nhập pháp giới”. Tuy khác nhau về tông chỉ nhưng phương tiện đều dẫn dắt con người quay về bản lai diện mộc của chính mình. Tịnh độ tông phù hợp với mọi căn cơ quốc độ của chúng sinh: Bậc thượng, bậc trung, bậc hạ; Thiền tông thích ứng bậc trung, bậc thượng. Cho nên, diệu dụng của pháp môn không phải danh xưng, lời nói suông mà là pháp môn được mọi người thích ứng và thực hành đúng chính pháp như Cổ nhân từng nói rằng: “Thuốc không quý tiện lành bệnh là thuốc hay, pháp chẳng cao thấp, hợp cơ là diệu pháp”. Pháp môn của đức Phật dạy là vô lượng vô biên, thậm thâm vi diệu, không phân biệt cao thấp vì giáo lý rất thù thắng, phù hợp với mỗi chúng sinh được xem diệu dụng, tối thắng vô cùng. Kinh Đại Tập: “Trong thời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát luân hồi”. Chiếu theo bề dày lịch sử của dân tộc Việt Nam, các tông phái phát triển rất nhiều và Tịnh độ tông cũng nương theo đó mà hình thành phát triển rất vững mạnh. Nhằm xây dựng một thế giới Tịnh độ tại nhân gian thanh tịnh, trang nghiêm và mẫu người lý tưởng đối với xã hội nên khuyến khích mọi người quay về đời sống nội tâm: “Khởi thức bồ đề giác tính, cả cả viên thành; tranh tri Bát nhã thiện căn, nhân nhân cụ túc” (dịch: Há lại không biết mầm giác ngộ, ai ai cũng có tròn đầy; sao lại không hay trí tuệ Bát nhã, người người đều đầy đủ). Nhằm giúp con người sống có ý thức tốt giúp đời đẹp đao, an vui, giải thoát.

Tư tưởng Tịnh độ tông cũng đánh dấu được bước ngoặt lớn ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, văn hóa tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Thời khóa tụng niệm hằng ngày bao gồm có cả Thiền – Tịnh – Mật được dung hòa với nhau. Đặc biệt sự truyền thừa tiếp nối tại Việt Nam về thiền tông của Trúc Lâm Yên Tử có ngài Thanh Từ; Hòa thượng Trí Quảng khởi xướng và truyền bá Pháp Hoa tông và khi nói về Tịnh độ thì nếu ở Trung Hoa có ngài Huệ Viễn làm sơ tổ thành lập “Bạch Liên Xã” thì ở Việt Nam Hòa thượng Trí Tịnh được xem là sơ tổ Tịnh độ tông Việt Nam thành lập “Cực Lạc Liên Hữu” vậy. Đó là tất cả công lao to lớn, bảo bối trận quý mà các Ngài đã để lại cho chúng ta nương theo tu học, pháp môn mà người người đều có thể thực hành đó là ai ai cũng thuộc hồng danh 6 chữ “Nam mô A Di Đà Phật”. Giống như Ngài Phổ Hiền có 10 hạnh nguyện độ sinh, Ngài A Di Đà 48 lời nguyện hay Ngài Quán Thế Âm có 12 lời nguyện... và tất cả các Ngài tùy theo sở nguyện của chúng sinh mà hiện thân thuyết pháp. Các Ngài có thể hiện làm thân Phật, làm vua trời Đế Thích, làm vua chúa quan lại, tỳ nữ,... cho đến loài súc sinh để phổ độ chúng sinh. Và được ví như là đám mây mưa để thấm nhuần muôn vật, trời quang mây tạnh không để lại dấu vết gì nhưng cỏ, cây, hoa, lá, chim, muôn thú, muôn vật được thấm nhuần sinh sôi nảy nở. Cho nên chúng ta cần phải nỗ lực tinh tấn tu học tốt, đi theo con đường “trung đạo”, tu trì thực hành “Giới – Định – Tuệ”, làm rường cột của Phật giáo, đem đạo vào đời để làm lợi ích chúng hữu tình, đền ơn báo ơn đối với chư Phật, chư 

Tổ cùng các bậc tiền bối đã đem đạo pháp đến gần với quần chúng nhân dân. Giúp mọi người tu tập để hóa giải nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống: “Tỉnh mê trong một sát na, Thánh phàm chỉ một nụ cười tử sinh”. Qua đây, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cõi Tịnh độ do chính kim khẩu đức Thế Tôn giới thiệu cảnh giới trang nghiêm, thanh tịnh và có y báo và chính báo đầy đủ. Xét về lý sự, nương theo cảnh giới tùy hạnh nguyện mà tu tập độ sinh thì tất cả pháp đều bình đẳng viên dụng. Cho nên, cõi Tịnh độ được các hành giả xem là mục tiêu chính tập trung năng lực, tư tưởng để tu tập. Ngài Ấn Quang đại sư nói: “Thời mạt pháp nếu bỏ pháp môn Tịnh Độ trên thời chẳng viên thành Phật quả, dưới thời chẳng thể độ khắp chúng sinh”. Đại lão Hoà thượng pháp sự Tịnh Không cũng nói: “Thời mạt pháp này nhìn khắp thế gian tuyệt nhiên chẳng thấy một vị xuất gia nào chứng được quả vị A La Hán”. Nay thời mạt pháp, cách xa thời Phật nhưng giáo lý của Ngài vẫn còn lưu truyền đến ngày nay. Chung quy Tịnh độ tông ngày nay có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lớn mạnh từ trong những năm đầu của thế kỉ XIX – XX, đây được xem là một phong trào Phật giáo Tịnh độ tại nhân gian.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Trung Còn dịch (2015), Kinh Na Tiên Tỳ – kheo, Nxb Tôn giáo.

2. Thích Minh Châu dịch (2017), Kinh Tương Ưng bộ I, Nxb Tôn giáo.

3. Thích Thiện Hoa (2005), Phật học phổ thông, Nxb Tôn giáo.

4. Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Hồng Đức.

5. Thích Minh Thời (2012), Kinh nhật tụng, Nxb Tôn giáo.

6. Thích Thanh Từ dịch (1997), Kinh Tăng nhất A – hàm, Nxb Tôn giáo.

7. Thích Thanh Từ soạn dịch (1990), Thiền sư Trung Hoa, Nxb Tôn giáo.

8. https://giacngo.vn/phap-mon-tinh-do-o-nam-bo-viet-nam-post35279.html truy cập: ngày 1/9/2022.

*Cao học khóa II tại Học viện PGVN tại Huế

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Ý nghĩa Tịnh độ

Tịnh Độ tông 11:00 22/10/2024

Tịnh Ðộ là chỉ cho quốc độ trang nghiêm thanh khiết an tịnh, quốc độ ấy tối thiểu phải có những điều kiện về nhân dân và thổ địa như sau:

Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương về Tịnh độ

Tịnh Độ tông 15:20 03/10/2024

Pháp môn Tịnh độ dễ tu nhưng khó tin. Trong kinh “Phật tuyết A Di Đà”, Đức Thế Tôn cũng thừa nhận như thế.

Pháp môn Tịnh Độ được mang theo túc nghiệp mà vãng sanh

Tịnh Độ tông 11:00 26/09/2024

Chúng ta sống trong thế gian có vô lượng nghiệp chướng, chủng tử tập nghiệp, muốn vượt qua sáu đường, vượt qua mười pháp giới cũng không nên gấp gáp mà có thể mang theo cả nghiệp, có thể không cần dứt phiền não, chỉ cần chuyên tâm niệm Phật A Di Đà.

Sư bà Hải Triều Âm khai thị về tông Tịnh Độ

Tịnh Độ tông 15:30 02/09/2024

Tông Tịnh độ có rất nhiều môn. Hiện nay tại Việt Nam chỉ lưu hành có 3 pháp.

Xem thêm