Bài học trừ kiêu mạn

Kiêu mạn (màna) hay tâm lý kiêu căng tự mãn thường xem nhẹ người khác là một chứng bệnh của những tâm hồn nông nổi, ham thích danh vọng, nặng về cái tôi, ít rung cảm hay đồng cảm trước cảnh ngộ khó khăn của người khác. Nó là dấu hiệu tăng trưởng của cảm thức đắc ý tự mãn phát sinh do hoàn cảnh thuận lợi hoặc do thói quen hay tư lường đánh giá hời hợt về mặt này mặt khác giữa mình và người khác.

Chẳng hạn, ý tưởng cho rằng: “Ta xuất gia từ một gia đình cao sang; còn các Tỷ- kheo này không xuất gia từ một gia đình cao sang”. Hoặc: “Ta được nhiều người biết đến, có danh xưng; còn các Tỷ- kheo này được ít người biết đến, không được trọng vọng” (1).

Trong giáo lý đạo Phật, kiêu mạn được xem là tâm lý không chính đáng hay phi chân nhân pháp (2), là tâm cấu uế (3), pháp chướng đạo hay ác pháp cần phải loại trừ (4), vì nó là cảm thức tự mãn sai lầm, ngăn cản sự tiến bộ của tâm thức trong tiến trình tu tập, khiến cho hành giả tu Phật rơi vào tình trạng mê say, tham đắm, phóng dật, đi lạc vào tà đạo (5). “Này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử do lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, có danh vọng. Do được lợi dưỡng, tôn kính, có danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, mãn nguyện. Do được lợi dưỡng, tôn kính, có danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền”. Vị ấy, vì được lợi dưỡng, tôn kính, có danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ” (6). Ở một cấp độ tế nhị hơn, như kiết sử thứ tám trong mười kiết sử, nó là tập khí tự mãn tiềm ẩn sâu kín ở trong nội tâm, thuật ngữ đạo Phật gọi là “ngã hữu kiến mạn tùy miên” (asmìti ditthimànànusaya), tức một loại cảm thức xoay quanh ý niệm “tôi” hay “của tôi” đôi khi dấy khởi ở những người có các thực nghiệm sâu về tâm linh, như ý nghĩ “tôi là”, “tôi thấy”, “tôi chứng”... Cảm thức này dấy khởi cũng trở thành một chướng ngại đối với người tìm cầu giải thoát tâm linh, do vậy, nó được xem như một kiết sử, tức một thứ trói buộc tinh tế cần phải loại trừ vì nó trói chặt tâm thức con người ở trong vòng luân hồi khổ đau.

Bài học trừ kiêu mạn  1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Đức Phật xem kiêu mạn là ác pháp hay pháp chướng đạo bởi cảm thức tự mãn quá đáng này làm say đắm lòng người, khiến con người trở nên mê muội, “ngủ quên trong đắc ý”, không thấy rõ bản chất vô thường bất an của hiện hữu, không còn tinh cần tinh tấn, bỏ qua gánh nặng đối với thiện pháp, rơi vào phóng dật, thực hiện các hành vi ác bất thiện về thân, về lời, về ý dẫn đến các hậu quả khổ đau. Ngài lưu ý với chúng ta về diễn tiến nguy hại của các tâm lý kiêu mạn:

“Say sưa trong kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Say sưa trong kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Say sưa trong kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục” (7).

Nhìn chung, kiêu mạn là một loại cảm thức sai lầm hay một tâm lý tự mãn tai hại cần được loại bỏ, xuất hiện ở các cấp độ khác nhau và trong các lãnh vực khác nhau của cuộc sống. Nó là cảm giác tự thỏa mãn hay đắc ý về chính mình hoặc về những gì mình có được đi đôi với tâm lý thích khoe khoang so sánh với người khác. Nó là lề thói của ý tưởng tự tôn ngã mạn làm suy đồi tư cách đạo đức của con người. Nói cách khác, nó là cái “Tôi” chủ nghĩa được thổi phồng lên khiến cho con người trở nên say sưa mê muội, đánh mất đi các đức tính khiêm tốn và thận trọng cần thiết trong cuộc sống. Bởi nó là tâm lý sai lầm hướng con người lạc vào tà đạo, ấp ủ những ý nghĩ bất chính, những lời nói bất chính hay những việc làm bất chính, nên Đức Phật khuyên dạy chúng ta cần phải nỗ lực loại trừ kiêu mạn.

Về cách thức, Đức Phật nói cho chúng ta biết một kinh nghiệm đối trị rất hay, đó là suy nghĩ nhiều về bản chất vô thường bất an - già-bệnh-chết - của bản thân. Ngài cho rằng khi nào con người ta có những suy nghĩ chín chắn và trưởng thành về bản thân mình, nghĩa là quay nhìn lại chính mình và nhận ra “tánh già nằm trong tuổi trẻ, tánh bệnh ở trong sức khỏe, tánh chết nằm trong sự sống” (8), thì bấy giờ ý tưởng kiêu mạn không có lý do sanh khởi hay tồn tại (9). Ngài kể câu chuyện về cuộc đời giàu sang thuận lợi của Ngài khi còn ở trong hoàng cung đi đôi với những suy nghĩ chân thành xác đáng về sự kiện già-bệnh-chết không ai tránh khỏi của kiếp nhân sinh như là một cách thức giúp Ngài vượt qua các tâm lý và thái độ kiêu mạn. Ở đây chúng ta có thể đọc và suy ngẫm câu chuyện tự sự của Ngài để rút ra bài học khiêm cung cho bản thân mình:

“Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương Ta, các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả để phục vụ cho Ta. Không một hương chiên đàn nào Ta dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y, bằng vải kàsi là thượng y. Đêm và ngày, một lọng trắng được che cho Ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. Trong các nhà của người khác, các người đầy tớ, làm công được cho ăn cơm tấm và cháo chua; trong nhà của phụ vương Ta, các người đầy tớ, làm công được cho ăn gạo thịt gà và cơm nấu. Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ:

“Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, sau khi thấy người khác già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho Ta”. Sau khi quan sát về Ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn.

“Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị bệnh, Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho Ta”. Sau khi quán sát về Ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.

“Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho Ta”. Sau khi quán sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn”(10).

Chú thích:

1. Kinh Chân nhân, Trung Bộ.

2. Kinh Chân nhân, Trung Bộ.

3. Kinh Ví dụ tấm vải, Trung Bộ.

4. Kinh Thừa tự pháp, Trung Bộ.

5. Đại kinh Thí dụ lõi cây, Trung Bộ.

6. Đại kinh Thí dụ lõi cây, Trung Bộ.

7. Kinh Kiêu mạn, Tăng Chi Bộ.

8. Kinh Già, Tương Ưng Bộ.

9. Kinh Được nuôi dưỡng tế nhị, Tăng Chi Bộ.

10. Kinh Được nuôi dưỡng tế nhị, Tăng Chi Bộ

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!

Phật giáo thường thức 17:28 20/11/2025

Việc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.

Tu là trở về nguồn cội, quá trình biến đổi tâm thức và tư duy

Phật giáo thường thức 16:00 20/11/2025

Tu không phải chỉ là việc đơn thuần lên chùa, ăn chay, và tụng kinh niệm Phật; cũng không chỉ là việc tìm đến những nơi hẻo lánh, xa rời thế tục.

Vì sao niệm Phật mà tâm chẳng được quy nhất?

Phật giáo thường thức 14:32 20/11/2025

Niệm Phật điều cần yếu là thường xuyên đặt mình vào trường hợp sắp chết, sắp đọa địa ngục thời không khẩn thiết cũng tự khẩn thiết. Dùng tâm sợ khổ để niệm Phật, ấy là “xuất khổ diệu pháp đệ nhất” cũng là “tùy duyên tiêu nghiệp diệu pháp đệ nhất”. Tâm niệm Phật sở dĩ chẳng qui nhất là do lỗi của tâm đối với sự sanh tử chẳng tha thiết.

Xem thêm