Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ hai, 17/10/2022, 16:30 PM

Bốn loại biện tài là những loại nào?

Biện tài hay biện tài vô ngại là một trong những phẩm chất cần thiết của vị sứ giả Như Lai. Biện tài có nghĩa là tài hùng biện, biện luận tài giỏi, khả năng nói các pháp nghĩa một cách khéo léo trôi chảy, thuyết pháp lưu loát, có sức thuyết phục người nghe.

Audio

Ở bất cứ thời đại hay hình thái xã hội nào, nếu đệ tử Phật thành tựu biện tài thì Phật pháp được xương minh.

Thế Tôn thành tựu đầy đủ bốn loại biện tài nên tự tại vô ngại truyền trao Chánh pháp cho trời người và chúng sinh được thấm nhuần ơn pháp. Hàng đệ tử của Ngài cũng thành tựu biện tài nên Chánh pháp được lưu truyền đến tận ngày nay. Mục tiêu tu học của người đệ tử Phật là tự lợi và lợi tha. Để lợi tha được viên mãn, biện tài là một trong những phương tiện cần yếu, nên Thế Tôn từng huấn thị “Hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài”.

Thế Tôn thành tựu đầy đủ bốn loại biện tài nên tự tại vô ngại truyền trao Chánh pháp cho trời người và chúng sinh được thấm nhuần ơn pháp.

Thế Tôn thành tựu đầy đủ bốn loại biện tài nên tự tại vô ngại truyền trao Chánh pháp cho trời người và chúng sinh được thấm nhuần ơn pháp.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có bốn loại biện tài. Thế nào là bốn? Nghĩa là nghĩa biện, pháp biện, từ biện và ứng biện.

Thế nào gọi là nghĩa biện? Nghĩa biện là lời nói của người này, người kia như Trời, rồng, quỷ thần nói đều có thể phân biệt được nghĩa. Đó gọi là nghĩa biện.

Thế nào gọi là pháp biện? Như Lai thuyết mười hai bộ kinh. Nghĩa là Khế kinh, Kỳ dạ, Bổn mạt, Kệ, Nhân duyên, Thọ ký, Tự thuyết, Tạo tụng, Sanh kinh, Phương đẳng, Hợp tập, Vị tằng hữu; và các pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, các pháp thật không thể phá hoại, có thể tổng trì. Đó gọi là pháp biện.

Thế nào gọi là từ biện? Như chúng sanh ở trước có lời hay, dở; lời đàn ông, lời đàn bà; lời Phật, lời Phạm chí, Trời, rồng, quỷ thần; lời của A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la nói, tùy theo căn nguyên của họ mà thuyết pháp cho. Đó gọi là từ biện.

Thế nào gọi là ứng biện? Lúc đang thuyết pháp không có khiếp nhược, không sợ hãi, hay làm vui hòa bốn bộ chúng. Đó gọi là ứng biện.

Nay Ta sẽ dạy dỗ các thầy! Nên như Ma-ha Câu-hy-la. Vì sao thế? Câu-hy-la có bốn biện tài này, hay cùng bốn bộ chúng rộng phân biệt nói. Như ngày nay, Ta xem trong các chúng không có ai được bốn biện tài hơn Câu-hy-la. Như Lai có bốn biện tài này. Thế nên, hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Khổ lạc,VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.92)

Trước hết là nghĩa biện, hiểu được nghĩa lời nói của mọi loài như kinh dạy là điều vạn nan. Có nhiều trường hợp, chúng ta nghe hết những gì người khác nói nhưng chưa chắc đã hiểu thâm ý họ muốn gì. Thành ra, ngoài sự nghe hiểu thông thường cần tinh tế và sâu sắc mới có thể cảm nhận, hiểu được ý người khác nói.

Pháp biện tức thông suốt giáo pháp. Nắm vững yếu nghĩa của giáo pháp, xuyên suốt từ tục đế đến chân đế, từ hữu vi đến vô vi, từ Nguyên thủy đến Phát triển. Nhờ thông hiểu giáo pháp mới có thể diễn đạt và truyền trao một cách sáng tỏ, nhất là dung thông các quan điểm dị biệt nhằm hoằng dương Chánh pháp hữu hiệu.

Từ biện là “tùy theo căn nguyên của họ mà thuyết pháp cho”. Có nhiều đối tượng nghe pháp với căn cơ, nhận thức, hoàn cảnh, tâm lý khác nhau. Nếu quán chiếu sâu sắc, chúng ta sẽ thấy họ đều có điểm chung, đó là khổ và nhu cầu giải khổ. Vận dụng tâm từ để yêu thương và thuyết pháp hợp căn cơ, khiến cho tất cả đều được thấm nhuần và lợi ích.

Ứng biện là nói pháp vô ngại, không có khiếp nhược, không sợ hãi, ứng đối lanh lợi khiến người nghe cảm phục, hoan hỷ tùy thuận theo. Người đệ tử Phật luôn ghi nhớ và thực hành lời dạy “Hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài”. Chúng ta không cầu trọn vẹn như Tôn giả Câu-hy-la, chỉ cần một phần biện tài của ngài thôi cũng góp phần không nhỏ trong việc hoằng dương Phật pháp trong bối cảnh xã hội hiện nay. 

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Tâm bình thế giới bình

Kiến thức 20:34 02/05/2024

Hòa bình nghĩa là không chiến tranh, không chết chóc, không đau thương. Quan niệm hòa bình của Phật giáo là không có chiến tranh từ tâm thức đến ngoại cảnh, từ nhân cho đến qủa. Nói rõ hơn, chiến tranh có là do tâm hỗn loạn, tham lam, sân hận và si mê.

Dứt trừ được phiền não sẽ giúp người tu Tịnh độ dễ sanh về Tây phương

Kiến thức 17:00 02/05/2024

Đã là phàm phu, tất còn ở trong vòng phiền não, bị nó mê hoặc sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền não có nghĩa: "khuất động thiêu đốt" làm cho tâm niệm không yên, ngăn trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng.

Nghiệp chướng hôn trầm, ham mê ngủ nghỉ

Kiến thức 15:02 02/05/2024

Đức Phật dạy rằng có năm triền cái – năm trạng thái tâm lý, tình cảm làm ngăn che trí tánh của con người, còn gọi là năm phiền não nghiệp chướng, đó là: ái dục, sân hận, trạo cử, hôn trầm, nghi hoặc, làm trở ngại trên đường tu tập thiền định, phát triển trí tuệ, thành tựu Phật đạo.

Ngộ ra những điều “không thể được” để tùy duyên tiếp vật, sống tự tại an nhiên

Kiến thức 13:05 02/05/2024

Khi nhìn trẻ con khóc lóc cố đòi cho bằng được những vật ngoài khả năng sở hữu của cha mẹ nó, người lớn chúng ta hay mỉm cười cảm thông độ lượng. Chỉ có trẻ con mới cố đòi những vật “không thể được”. Khi nào lớn khôn các cháu sẽ hiểu.

Xem thêm