Chim quê
Chỉ cách nay chừng vài chục năm thôi, ở vùng thôn quê Quảng Nam, và có lẽ là trên cả nước, hầu như nhà nào cũng phải có một khu vườn dù rộng hay hẹp. Vườn trồng nhiều rau trái hay nhiều hoa là tùy sở thích và điều kiện kinh tế của chủ nhân, nhưng chắc chắn là tất cả đều được chăm sóc kỹ và đều quyến rũ mọi loài chim.
Có loại chim thường trú ngay trong vườn, có loại vãng lai tùy lúc khi trong vườn có quả chín hợp khẩu vị của chúng.
Chim cu, chim sâu các loại thuộc diện thường trú. Chim cu ở vườn có hai loại là cu đất và cu ngói. Cu đất thường làm tổ trên nhánh mít, nhánh xoài. Tổ của nó rất sơ sài, chỉ vài lớp cỏ khô mỏng. Cu ngói làm tổ trên ngọn mấy cây cau lão cao nhất vườn. Buổi sáng, buổi chiều, vườn rộn vang tiếng cu đất gáy, cu ngói rúc. Tiếng gáy của cu đất thường kích thích đồng loại ở nơi khác bay đến, có khi đôi bên thân mật đối diện gù vang nhưng lắm lúc lại đá nhau chí tử rồi... vườn “ai” nấy về.

Hoàng anh là loại chim sâu nhỏ, lông vàng như gấm. Chúng thường kiếm ăn từng đôi, sáng chiều cần mẫn bắt sâu hết cây này sang cây khác, vừa nhặt sâu vừa kêu chiêm chiếp rất dễ thương.
Chim chúp mũ, mà nhiều nơi gọi là chào mào, cũng thường đi từng đôi; nhiều lúc chúng kéo cả bầy khi phát hiện những hàng đậu đũa đã trổ bông. Chúng kêu nghe rất vui tai nhưng nếu không đuổi chúng bay đi thì mấy hàng đậu đũa chẳng còn bông nào.

Chim sẻ nhỏ con, hiền lành, thường làm tổ trên các nóc nhà ngói. Chúng tìm ăn thóc rơi trên sân và các loại hạt nhỏ trên mặt đất khắp khu vườn.
Nhỏ và đẹp là chim hút mật. Nó chỉ thăm vườn khi có bắp chuối đã xòe. Nó đậu bên trên hay bám dưới bắp chuối ngửa bụng lên để hút mật trong hoa chuối.
Khi vườn có mít chín thì có cả bầy quạ bay về. Chúng kêu rân. Chủ vườn không kịp hái những trái mít chín ấy thì sẽ chẳng còn gì để hái.
Chim gõ kiến bám vào những thân cây rồi cứ trèo ngược lên để mổ ăn kiến. Nếu nó mổ vào thân tre già thì tiếng vang rất xa, có lúc đổ hồi như người ta đánh mõ.
Chim chích chòe chỉ đi kiếm ăn từng cặp chứ không tụ thành bầy. Người ta ít khi gặp tổ của chúng. Loại chim này rất... lãng tử. Chúng kiếm ăn tại khắp các khu vườn, gặp lúc chiều xuống mà cả cặp còn chưa ra khỏi vườn thì chúng tìm một nhánh cây an toàn nào đó để ngủ lại qua đêm, sáng ra hót vang một hồi mới bay đi. Chim tu hú cũng lãng tử nhưng lại... vô trách nhiệm. Chim mái thường đẻ trứng vào tổ của chim cà cưởng là loại chim vị tha, hót hay. Vậy nên dân gian có câu: “Tiếc công cà cưởng tha mồi - Nuôi con tu hú lớn rồi bay đi”.
Vườn có hàng tre ắt có chim bù chao. Có hai loại bù chao. Bù chao bạc má hót hay, chỉ ở những lùm cây cạnh dòng suối tại các bìa rừng. Bù chao lùm mới làm tổ trong những hàng tre dưới đồng nội. Loại này không kiếm ăn trong vườn mà cả bầy bay đi tìm những nà mới trỉa bắp, những đám thổ mới xuống giống đậu phụng, đậu đen để moi hạt lên mà ăn. Tò mò theo dõi bầy bù chao lùm đang phá các nơi ấy thì thấy chúng nhảy mấy bước lại áp tai sát đất sau đó dùng chân đào đất lên để ăn hạt giống. Bà con nông dân cho rằng bù chao biết “nghe” chỗ nào có hạt giống trở mình trong đất.
Vườn có hàng tre cũng là nơi chim chèo bẻo đậu trên các đọt măng vòi để ngắm trời và kêu “chèo bẻo chẹt” chào bình minh.
Tiếng chim vịt kêu vào buổi chiều nghe buồn và khiến người đi xa thương quê nhớ kiểng như câu hát “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, bâng khuâng nhớ mẹ...”. Có khi nó kêu ba tiếng ngắn nghe như “í cha chả... í cha chả”, có lúc nó xổ một tràng dài “vít vít vít vịt vịt vịt”...
Hiền lành và thân thiện với người nhất là chim khách. Người ta tin rằng bữa nào chim khách kêu trước nhà là sắp có khách đến...
Các loại chim không ở và tìm mồi trong vườn là cò trắng, cò lửa, mỏ nhác, chim cút ở đồng ruộng; chim quốc quanh quẩn các bờ ao; bìm bịp thường trú trên các lùm tre bên sông để chờ giờ kêu nước lớn; gà rừng, sáo sậu ở đồi; bồ nông, cồng cộc to xác độc chiếm các bàu nước...
Đầu mùa đông có những bầy sếu thiên di hàng trăm con bay ngang trời nhưng chúng chỉ... quá cảnh chứ không dừng lại.
Ở vùng thôn quê Quảng Nam cũng có hai loại ác điểu là diều hâu và ó, những loài vẫn là khắc tinh đối với các loài chim hiền và lũ gà con, vịt con ở dưới đất. Được cái là chúng có số lượng rất ít, lại cũng thường bị bầy chèo bẻo hiệp sĩ rượt đánh chí mạng
Loài chim đêm quen thuộc nhất là cú mèo. Cái tên này thật đúng vì mặt của nó giống mặt mèo.
Ban ngày, cú mèo đậu im trên tán lá rậm của những cây cao như cây thị lão ở vườn nhà, cây bồ đề cổ thụ tại vườn chùa, vườn miếu. Nó phải ẩn thân kỹ như vậy vừa để ngủ, vừa sợ bầy chèo bẻo bắt gặp sẽ tấn công ngay. Chim chèo bẻo nhỏ con nhưng rất nhanh nhẹn, gan dạ và có mỏ sắc làm vũ khí. Khi bị đánh, cú mèo chỉ ráng tránh né và bay trốn chứ không thể đánh trả. Nó vốn chậm chạp, ban ngày nhìn rất kém, lại đơn độc trong khi chèo bẻo có cả bầy, càng lúc càng đông. Cú mèo không được người ở các làng quê thân thiện.
Từ xưa, nó bị coi là giống chim báo điềm chẳng lành. Dân gian ta có cụm từ “cú kêu ma ăn”. Nhiều người tin rằng cú kêu liền ba tiếng tại xóm nào thì nơi ấy sắp có người chết. Thật ra, thành kiến với cú mèo cũng oan cho nó. Tuy bộ mặt, cặp mắt và tiếng kêu đều rất khó ưa nhưng nó là loài chim hiền. Mỗi ngày, khi mặt trời vừa lặn là nó bay đi kiếm ăn. Mồi của nó toàn các loại côn trùng có hại cho cây cối.
Chim đớp muỗi có tài biết khoảng trống không gian nào đang tập trung nhiều muỗi. Thế là cả bầy chim đớp muỗi bay ngang, bay dọc trên vùng giàu “lương thực” ấy, mỏ con nào cũng há hoác ra để muỗi tuôn vào. Không có một dụng cụ diệt muỗi nào sánh kịp công năng về lĩnh vực này so với chim đớp muỗi. Ban đêm, chim đớp muỗi xuất hiện để săn mồi, nhưng ban ngày chúng ngủ trong núi sâu.
To nhất trong mấy loại chim ăn đêm là dủ dỉ. Nó to hơn một con gà mái đẻ. Ban ngày, phần lớn dủ dỉ ẩn trong núi có cây cao. Thỉnh thoảng, người ta cũng thấy một vài con ngủ ngày trên vòm cao chót vót của cây cổ thụ gần bìa rừng hay nơi xa xóm làng. Nó đi kiếm ăn rất khuya thường là vào khoảng hai, ba giờ sáng. Nơi nào có dủ dỉ xuất hiện, người còn thức biết ngay vì nó kêu liên tục, tiếng kêu trầm, vang xa. Nó thường tìm những đám phân trâu trên đường đi của trâu bò để xơi các con giòi trong đó. Lắm khi nó vào tận chuồng trâu để kiếm ăn. Thời trước, người làng quê diễn âm vui theo tiếng kêu của dủ dỉ như kiểu đo đạc điền thổ:
“đông tây hai phía cận bìa rừng”.
Loài chim đêm thứ tư là chim vạc. Chúng thuộc họ cò. Đêm thật khuya, từ trong núi xa, bầy vạc bay qua các làng quê hướng về phía biển xa. Không ai nhìn thấy chúng nên chẳng biết bầy vạc có bao nhiêu con. Người ta chỉ nghe những tiếng quác... quác... rời rạc kéo dài trên không trung. Vào lúc gần rạng sáng, tiếng vạc lại vang lên theo chiều bay ngược lại. Chúng bay trở về núi.
Bốn loại chim đêm quen thuộc ở thôn quê đều rất hiền nhưng ngày nay chẳng mấy nơi còn đủ.
Mới chưa đầy nửa thế kỷ, nhiều loài chim nay đã vắng bóng. Sống ở thành phố không được nghe tiếng chim hót trong thiên nhiên cũng đành. Nhưng có những dịp về sống ở thôn quê hàng nửa tháng, nhiều lúc người ta vẫn ngơ ngẩn cảm thấy không hiểu có gì thiêu thiếu. Có khi chợt nhớ ra rằng không gian vắng tiếng chim. Chả trách bà con ta ở nông thôn rất quý mọi loài chim. Họ không chấp nhận những kẻ chuyên dùng súng săn và các loại bẫy đi lùng sục để hạ sát các giống chim có ích và làm đẹp cho đời.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Ranh giới của hiền thiện
Phật pháp và cuộc sốngTừ nhỏ, chúng ta thường được dạy phải hiền: hiền là nhịn, hiền là cười, hiền là nhường cho xong chuyện.
Học Phật để thương sâu
Phật pháp và cuộc sốngNhững ngày qua, nhìn miền Trung chìm trong biển nước mênh mông, nhà cửa ngập đến nóc, người dân co ro trên mái nhà vừa đói vừa lạnh chờ cứu hộ… thật sự đau lòng.
Chú nghé hiểu chuyện
Phật pháp và cuộc sốngGiữa đời sống còn nhiều lo toan, câu chuyện về lòng tốt của vợ chồng anh Nguyễn Văn Quảng (42 tuổi) và chị La Thị Thắng (38 tuổi), ở phường Bình Khê, tỉnh Quảng Ninh, cùng sự “hiểu chuyện” đến lạ kỳ của chú nghé mồ côi mang tên Mập, đã khiến nhiều người xúc động. Đây không chỉ là câu chuyện cưu mang một con vật bé nhỏ giữa núi rừng, đó còn là minh chứng cho sự tử tế giản dị, là thứ ánh sáng âm thầm mà bền bỉ của người nông dân chân chất.
Xem thêm















