Khất thực trong Phật giáo
Pindapāta là Pháp thực hành khất thực, được chư Tăng trong truyền thống Phật giáo Theravāda (Nguyên thủy) thực hành, những vị đã từ bỏ đời sống tại gia để bước vào đời sống không gia đình.
Một vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) - theo ngôn ngữ Pāḷi - là “người sống nhờ vào vật thực do thí chủ cúng dường”, và người sống nhờ khất thực ấy cần phải tự quán chiếu xem mình có xứng đáng thọ nhận vật thực ấy hay không. Từ thời Đức Phật, chư cư sĩ đã hỗ trợ chư Tăng với bốn vật dụng thiết yếu: y áo, thực phẩm, chỗ ở và thuốc men.
Hành động cúng dường vật thực tạo nên sự kết nối giữa con người và chư Tăng. Đáp lại, chư Tăng hướng dẫn cư sĩ học và hành theo giáo pháp, từ đó hình thành một mối quan hệ gần gũi, kính trọng và tương hỗ giữa hai cộng đồng.

Khi Bồ-tát Thái tử Siddhatta (Tất-đạt-đa) từ bỏ thế gian để trở thành Sa-môn, vị Phạm thiên Ghatrikāra đã mang đến tám vật dụng thiết yếu cho người bạn xưa của mình, trong đó có cả bình bát khất thực.
Sau khi an trú trong lạc thọ thiền định suốt bảy ngày tại vườn xoài Anupiya gần đó, Bồ-tát đã đi bộ một quãng đường ba mươi do-tuần (yojana) trong một ngày, đến thành Rājagaha. Ngài đi khất thực, nhận vật thực vừa đủ để nuôi thân. Thức ăn Ngài nhận được bao gồm đủ loại, thô và tinh, đủ màu sắc, được trộn lẫn với nhau. Sau đó, Ngài ngồi quay mặt về hướng đông tại cửa hang trên núi và bắt đầu dùng bữa với phần thực phẩm hỗn hợp thô lẫn tinh ấy. Khi đưa miếng ăn lên miệng, Ngài cảm thấy khó chịu đến mức muốn nôn mửa, ruột gan như đảo lộn, bởi vì suốt đời chưa từng thấy loại thức ăn như vậy, huống gì ăn vào. Ngài cảm thấy ghê tởm sâu sắc.
Ngay lúc ấy, Ngài tự quở trách mình: “Này Siddhatta, dẫu đã từng làm vua hưởng thụ mọi cao lương mỹ vị trong cung điện - với cơm thơm ba năm ủ cùng các món cao sang tuỳ thích - ngươi đã từng thấy một vị Sa-môn mặc y vá và tự nghĩ: ‘Bao giờ ta mới được đi khất thực từ nhà này sang nhà khác và ăn những bữa cơm như thế? Bao giờ ta mới sống đời sống khất thực như vị ấy?’ Lẽ nào với ý nguyện như vậy, nay đã từ bỏ thế tục, trở thành sa-môn rồi, mà ngươi lại thay đổi tâm ý sao?”
Nghĩ như vậy, Ngài đoạn trừ tâm khởi ghê tởm, và không chút do dự, đã thọ thực phần cơm thô sơ ấy.
Khi Đức Thế Tôn sau khi thành đạo trở về thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), Ngài không nhận lời mời dùng cơm tại cung vua mà vẫn đi khất thực. Khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) hay tin, liền rời cung ra gặp và thưa: “Bậc Tôn Quý Nhất, sao Ngài lại khiến chúng con xấu hổ bằng việc đi khất thực như vậy? Chẳng lẽ phụ vương của Ngài lại không thể lo nổi vật thực cho hai vạn vị Arahant ư?”
Đức Phật liền đáp: “Tâu Đại vương, việc đi khất thực từng nhà là truyền thống của chư Phật, từ thời vô thủy đến nay vẫn không gián đoạn.”
Vua Suddhodana liền nói: “Chúng ta thuộc dòng dõi Khattiya - là những bậc đại vương được tôn bầu lên, nối tiếp nhau từ đầu kiếp thế gian. Trong dòng dõi Khattiya cao quý này, chưa từng có ai phải đi xin ăn từng nhà cả.”
Đức Phật bèn trả lời: “Tâu Đại vương, dòng dõi Khattiya là dòng của phụ vương. Còn dòng của ta là dòng của chư Phật - kể từ Đức Phật Dīpaṅkara, Koṇḍañña, Maṅgala cho đến Kassapa. Trải qua hai mươi bốn vị Phật tiền kiếp, và hằng hà sa số chư Phật như cát sông Hằng, tất cả đều hành trì pháp khất thực, đi từng nhà để nhận vật thực. Việc đi khất thực từ cửa nhà này đến cửa nhà kia chính là phương tiện sinh sống của chúng ta”.
Theo truyền thuyết, Phạm thiên Ghaṭikāra, người bạn cũ thời tiền kiếp, nay đã sinh lên cõi Phạm thiên nhờ tu hạnh thánh thiện, rất hoan hỷ khi thấy bạn xưa nay đã tiếp tục con đường giác ngộ. Ông liền hiện xuống nhân gian, mang đến tám vật dụng thiết yếu của một sa-môn, bao gồm:
1. Tam y (ba chiếc y: y nội, y ngoài, y sanghāti)
2. Bình bát khất thực
3. Dao cạo
4. Kim may y
5. Dây nịt y - (tiếng Pāḷi: saṅghāṭi-bandhana hoặc cīvara-bandhana) là sợi dây hoặc dải vải dùng để buộc hoặc giữ y - thường là phần y ngoài cùng (saṅghāṭi) - cho gọn gàng, chắc chắn khi mặc.
6. Phòng xá (tượng trưng). Tấm vải trải đất (nisīdana) dùng để ngồi thiền hay nghỉ (toạ cụ). Tượng trưng cho việc tạo đủ điều kiện để Bồ-tát có thể an trú, không phải là căn nhà vật chất.
7. Lưới lọc nước
8. Cây gậy
Các danh mục này có thể hơi khác tùy truyền thống, nhưng bình bát và tam y là không thể thiếu.
Những vật này được gọi là “attha parikkhārā” – tám vật dụng không thể thiếu của một vị Tỳ-khưu.
(Trích: Mahābuddhavaṃsa - Đại Phật Sử)
Mingun Sayadaw - Ngài Tam Tạng 1
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Hành pháp thiện để an lạc ngay hiện tại và tốt đẹp trong tương lai
Phật giáo thường thứcCuộc đời vốn trôi qua rất nhanh, loay hoay thì tuổi già và cái chết ập đến ta chỉ còn lại nắm tro tàn. Rồi theo dòng nghiệp lực ta sẽ có kiếp sống mới, nhưng ở hình hài nào thì cũng phải là do tiền nghiệp thúc đẩy.
Liên hệ giữa nghiệp quá khứ và hiện tại với tinh tấn và trí tuệ
Phật giáo thường thứcĐối với những chúng sinh còn lang thang trong vòng tử sinh luân hồi, nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại là những nhân chính trong việc tác thành hạnh phúc và khổ đau mà các chúng sinh ấy cảm thọ trong kiếp hiện tại. Những nhân khác như thời gian (kāla), nơi chốn (desa), v.v...là các nhân phụ.
Sống đúng với chính mình
Phật giáo thường thứcKhi biết yêu thương và tôn trọng bản thân, ta mới đủ sức yêu thương người khác một cách trọn vẹn. Sống đúng với chính mình không phải là ích kỷ, mà là cách duy nhất để sống một cách chân thật.
Một đời sống có trí tuệ là luôn ý thức rõ về nhân và quả
Phật giáo thường thứcNgười không dốc sức dồn thời gian cho chuyện tu học thì sẽ bỏ lỡ 3 cơ hội này:
Xem thêm














