Làm sao biết tâm mình xưa nay thanh tịnh?
Tâm mình xưa nay vốn thanh tịnh, giống như mặt trời trên hư không vào giữa trưa, vốn là sáng, vì bị mây che nên mờ tối. Chúng ta bị vọng niệm, phiền não, kiến chấp che phủ nên tâm mờ tối. Nếu dứt được ba mây mù đó thì tâm mình trong sáng thanh tịnh.
Kinh Thập Địa Phật dạy: "Trong thân chúng sanh có Phật tánh kim cang."
Chữ kim cang không có nghĩa là chất cứng bằng kim loại, mà có nghĩa là cứng chắc không bị tan hoại.
Phật tánh kim cang là Phật tánh cứng chắc như kim cang không gì phá hoại được.
Núi sông, cây cối, nhà cửa... có hình tướng đều bị phá hoại, còn hư không không hình tướng nên không thể phá hoại.
Vậy hư không là có hay không?
Hư không là nơi chúng ta tới lui qua lại sống trong đó, làm sao nói hư không không có được. Cái có hình tướng là có, cái không hình tướng cũng phải có.
Có mà bị phá hoại được là yếu mềm, còn có mà không phá hoại được thì cứng chắc.
Chúng ta biết nghĩ suy phân biệt tính toán là có tâm, vì tâm là cái biết. Những niệm nghĩ suy phân biệt, được mất, chợt sanh chợt diệt liên miên là tâm tạm bợ; còn tâm hằng biết mà không nghĩ suy phân biệt thì không thiếu vắng bao giờ, vững chắc như kim cang, gọi là Phật tánh.
Trở về tâm đó là trở về Phật tánh của chính mình, chạy theo tâm sanh diệt là tạo nghiệp đi trong sanh tử.
Ví như mặt trời tròn đầy sáng suốt, rộng lớn không ngằn, chỉ vì bị mây đen ngũ ấm che đậy, như ngọn đèn để trong bình, ánh sáng không thể chiếu soi.
Như mặt trời buổi trưa tròn đầy sáng suốt rộng lớn, nếu bị mây đen che mù mịt thì không thấy được ánh sáng.
Ở đây vừa nói dụ vừa hợp pháp. Nơi chúng ta có mây ngũ ấm, sắc thọ tưởng hành thức, che Phật tánh của mình, như mây đen che ánh sáng mặt trời, nếu mây đen tan thì ánh sáng mặt trời hiện rõ.
Cũng vậy, nếu mây ngũ ấm tan thì Phật tánh sáng suốt rõ ràng.
Trong ngũ ấm thì thọ tưởng hành thức thuộc về tâm, sắc thuộc về thân.
Nếu tâm cảm thọ, nghĩ tưởng, suy tư, phân biệt lặng rồi thì tâm chân thật hiện tiền.
Chúng ta hiện giờ đang sống với tâm nào?

Chắc là mười người như một, đang sống với tâm thọ tưởng hành thức, bị tâm đó chỉ huy, dẫn chạy đầu này đầu kia.
Nếu thọ tưởng hành thức lặng thì ánh sáng Phật tánh hay chân tâm hiển lộ.
Như khi chúng ta được năm ba phút ngồi lặng yên nhìn trời mây, không nghĩ suy phân biệt mà vẫn biết rõ ràng có trời mây, có tiếng chim hót.
Như vậy cái thấy cái nghe có vắng mặt bao giờ.
Đó là cái thật, không sanh không diệt.
Nhưng hiện giờ chúng ta đang sống với cái nào?
Nếu sống với cái tạm bợ là tạo nghiệp đi trong luân hồi liên miên, còn sống với cái thật là giải thoát sanh tử.
Khi xưa ở Trung Hoa, các ông tiên chế thuốc trường sanh bất tử để sống hoài không chết. Ai mà không thích!
Nhưng đức Phật lại dạy người nào muốn giải thoát sanh tử phải chứng Niết-bàn, mà Niết-bàn là vô sanh.
Suy ngẫm kỹ, luật vô thường có cho phép ai có sanh mà không tử chăng?
Các ông tiên luyện thuốc trường sanh cho tới nay tìm một ông cũng không có, tuổi thọ chỉ dài đến ngàn năm rồi cũng phải chết.
Chỉ có ai không sanh thì mới không tử, nghĩa vô sanh là dứt cái tử.
Thế nên, đạo Phật nói giải thoát sanh tử là khi chúng ta đạt được bất sanh bất diệt mới không còn sanh tử nữa.
Chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử phải nhận ra Phật tánh không sanh không diệt của mình.
Làm sao nhận được?
Khi nào dẹp sạch mây mù bốn ấm, thọ tưởng hành thức, thì ánh sáng Phật tánh mới chiếu soi.
Như khi ngồi thiền, thân tâm không có cơ hội tiếp xúc sáu trần bên ngoài, nên dẹp được cảm thọ khổ, vui, không khổ không vui; nhưng còn thọ khổ đau chân, nếu qua được đau chân thì hết khổ; đó là giảm được thọ.
Không nghĩ quá khứ vị lai thì giảm được tưởng. Chợt nhớ việc này việc kia liền buông là giảm được hành.
Không phân biệt tốt xấu, hay dở là giảm được thức...
Ngồi thiền mà mong được giác ngộ, mong mau thành Phật... cũng thuộc về tưởng, cho nên khi ngồi thiền phải nghiêm trang, tâm thanh tịnh, còn mong ước điều gì cũng sai.
Thế nên trọng tâm của việc tu là đẹp hết mây mù năm ấm.
Mặt trời đâu có tan hoại, tại sao không có ánh sáng?
Ánh sáng nguyên không hoại, vì bị mây mù che.
Tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh cũng như thế.
Chỉ vì bị mây đen vin theo vọng niệm, phiền não và các kiến chấp che đậy.
Mặt trời lúc nào cũng sáng làu làu, chỉ vì bị mây che nên khuất. Cũng thế, cái chân thật không thiếu vắng lúc nào, chỉ bị ngũ ấm và các pháp che nên không thấy.
Muốn thấy Phật chính mình không phải khó.
Khó vì tâm thanh tịnh, tức Phật tánh bị vọng niệm, phiền não và các kiến chấp che đậy.
Dừng vọng niệm, sạch phiền não, hết kiến chấp thì tâm thanh tịnh hiện ra. Đơn giản vô cùng.
Vọng niệm sanh ra, tăng trưởng liên tục là do mình, mình có quyền cho nó sanh, cho nó diệt.
Tại sao không lấy quyền làm chủ không theo vọng tưởng? Chạy theo nó thì nó là chủ, mình là tớ. Nếu ngồi thiền mà cứ chạy theo vọng tưởng là suốt buổi làm nô lệ cho nó, chừng nào mới làm chủ được?
Tu là giành lại quyền làm chủ chính mình, không để những thứ tạp nhạp làm quyền, nó dấy lên thì quở “buông”, tự nhiên nó sạch, ngồi thiền một giờ là làm chủ một giờ, ngày nào vọng tưởng tan biến hết, chừng đó mình sống trọn vẹn với ông chủ của mình.
Đó là được an lành, tự tại giải thoát.
Khi ngồi thiền có phiền não không?
Giờ tu mà phiền não ở đâu chen vào?
Giả sử bị huynh đệ nói nặng lời chạm tự ái, đến khi ngồi thiền nhớ lại những lời đó thì phải nạt cho nó lặng xuống.
Nếu suy nghĩ tìm cách trả lời cho xứng đáng, nói lại cho hả giận là nuôi dưỡng phiền não.
Cho nên chúng ta phải buông hết những vọng niệm, buông hết các phiền não.
Kế đến là kiến chấp. Ai cũng có kiến chấp hoặc ít hoặc nhiều.
Kiến chấp là gì? Đó là thấy sai lầm mà chấp cho là đúng.
Thí dụ có người nói ăn củ cải trắng không tốt, rồi cữ không ăn, khi trong bữa cơm không có món nào khác thì phiền não.
Hoặc như có người nghĩ rằng ăn gạo lức muối mè hết bệnh, nếu vào chúng không được ăn thì phiền não.
Đó là kiến chấp sanh phiền não. Sống mà theo kiến chấp riêng tư là không hòa hợp, không hòa hợp thì sanh phiền não, phiền não thì tu không được.
Người tu phải bỏ đi những kiến chấp nhỏ để hòa với mọi người, người ta sống được mình sống được, sống làm sao cho vui với nhau là hợp với đạo.
Người ta nói tu phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật, thật ra chỉ cần ba thứ mây mù vọng niệm, phiền não, kiến chấp dẹp sạch thì chân tánh hiển lộ, tuy chưa thành Phật quả mà cũng thấy được Phật nhân rồi.
Chỗ chỉ của chư tổ quá gần chứ không phải là xa.
Việc tu không khó, khó vì chúng ta ôm chặt kiến chấp, giữ nhiều phiền não, chạy theo vọng tưởng nên mê muội hết đời này đến đời kia.
Nếu hay giữ tâm lắng lặng, vọng niệm không sanh thì pháp Niết-bàn tự nhiên hiển hiện.
Xưa nay chúng ta cứ ngỡ Niết-bàn là chỗ có hào quang, có cái gì kỳ đặc, là vui tươi, sung sướng như cõi Cực lạc.
Mà không ngờ Phật nói sanh tử là đau khổ, Niết-bàn là an lạc. Vì Niết-bàn là không còn sanh tử, nên hết sanh tử là an lạc chứ gì!
Vọng niệm phiền não dẫn mình đi trong sanh tử, bao giờ vọng niệm phiền não sạch thì hết sanh tử, nhưng ngang đó không phải không còn gì hết, mà tâm thanh tịnh sẵn có của mình hiện ra rõ ràng, tâm đó không có sanh tử nên cũng gọi là Niết-bàn, cho nên biết tâm mình xưa nay thanh tịnh.
Hiện tại tâm chúng ta không thanh tịnh là tại vì mình cứ chạy theo bóng dáng sáu trần tạm bợ.
Thí dụ đang ngồi một mình, tâm yên lặng, bỗng nghe một bản nhạc vang lên liền duyên theo, nhạc vui thì cười, nhạc lâm ly thì buồn.
Vậy tâm thanh tịnh do duyên sáu trần liền có vui buồn.
Nếu không dính với sáu trần, vẫn giữ được quyền làm chủ thì không còn vui buồn, đó mới thật là thanh tịnh.
Nếu còn dính mắc sáu trần là không thanh tịnh, cho nên nói bóng dáng sáu trần làm nhơ bản tâm mình. Như vậy chỉ một câu hỏi và câu trả lời này là quá rõ ràng, tu chỉ bao nhiêu đó là đủ rồi.
Chư tổ không nói nhiều, không nói dài dòng, không viết mấy trăm trang sách, chừng vài chục trang đã đủ dạy chúng ta tu.
Vì vậy tôi giảng kỹ để chúng ta thấu suốt, nắm vững được đường lối tu.
Tóm lại, làm sao biết tâm mình xưa nay thanh tịnh?
Tâm mình xưa nay vốn thanh tịnh, giống như mặt trời trên hư không vào giữa trưa, vốn là sáng, vì bị mây che nên mờ tối.
Chúng ta bị vọng niệm, phiền não, kiến chấp che phủ nên tâm mờ tối. Nếu dứt được ba mây mù đó thì tâm mình trong sáng thanh tịnh.
Tâm đó là phàm hay thánh? Thánh.
Vậy thánh đâu có xa, đâu cần lên tới Ngũ Đài Sơn mới gặp.
Ở đâu cũng có thánh hết nếu tâm chúng ta thanh tịnh.
Trích trong: Tối Thượng Thừa Luận Giảng Giải.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!
Phật giáo thường thứcViệc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.
Tu là trở về nguồn cội, quá trình biến đổi tâm thức và tư duy
Phật giáo thường thứcTu không phải chỉ là việc đơn thuần lên chùa, ăn chay, và tụng kinh niệm Phật; cũng không chỉ là việc tìm đến những nơi hẻo lánh, xa rời thế tục.
Vì sao niệm Phật mà tâm chẳng được quy nhất?
Phật giáo thường thứcNiệm Phật điều cần yếu là thường xuyên đặt mình vào trường hợp sắp chết, sắp đọa địa ngục thời không khẩn thiết cũng tự khẩn thiết. Dùng tâm sợ khổ để niệm Phật, ấy là “xuất khổ diệu pháp đệ nhất” cũng là “tùy duyên tiêu nghiệp diệu pháp đệ nhất”. Tâm niệm Phật sở dĩ chẳng qui nhất là do lỗi của tâm đối với sự sanh tử chẳng tha thiết.
Xem thêm















