Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU

Người nằm xuống, vẫn “thương bạn bè qua sông qua suối không có đò”

Điều này thật chí lý khi người viết nhớ trong kinh Pháp Cú có câu “Nếu không gặp được bạn đồng hành, hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng”. 

Mãi đến hôm nay, người viết mới có được những lời tưởng niệm với một nhạc sĩ tài hoa và cũng là người thầy đầu tiên về lĩnh vực âm nhạc của mình. Nhạc sĩ Anh Việt Thu - Tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang - có người em tên Việt Thu, lấy nghệ danh  như vậy ngụ ý người anh lo cho đứa em Việt Thu (1939 - 1975).
 
Sự chậm trễ này do điều kiện khách quan, đến khi có đủ cơ duyên mới tìm hiểu và thu góp được nhiều sự kiện. Thời gian làm học trò với nhạc sĩ tuy chỉ có hai khóa học, 6 tháng nhưng có rất nhiều kỷ niệm và chuyển biến lớn trong hoạt động văn nghệ của mình mãi đến sau này. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ Phật giáo. Những kiến thức đặc biệt đó đã giúp rất nhiều cái nhìn sâu sắc và tường tận các vụ việc văn nghệ của mình. Hơn nữa ông bà ta từng nói “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, dù thời gian cận những ngày của năm 1975 và sau đó nữa  cuộc sống đã cuốn phăng mọi lo toan đến cách xa ngàn dặm.

Các khóa nhạc khi ấy cũng mang tên Phù Sa do chính nhạc sĩ đứng chịu trách nhiệm cùng các cộng sự tài danh như nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh dạy về nhạc lý căn bản; nhạc sĩ Lan Phương dạy về phát âm và có cả các tiết do soạn giả Loan Thảo đứng lớp. Địa điểm nằm trong Trung tâm Nhân Xã của giáo sư Hoàng Xuân Việt, ở số 2 Nguyễn Văn Thinh, bây giờ là Mạc Thị Bưởi, quận 1, Tp.HCM.

Nhạc của Anh Việt Thu có sức ảnh hưởng trong cuộc đời tôi rất lớn bởi vốn bản tính dễ cảm và thích văn thơ của mình. Khi chân ướt chân ráo gia nhập trước tiên  là GĐPT, tôi đã được mời lên hát trong nhiều buổi văn nghệ tại chùa mà bài hát đạo chưa thuộc bài nào nên cứ hát mãi ca khúc Đa Tạ, đến nỗi anh chị huynh trưởng đoàn sinh GĐPT khi ấy gọi tôi với biệt danh là “Anh Đa Tạ”! Những nhạc sĩ và là những vị thầy khi ấy không những dạy chúng tôi chuyên môn mà còn nắn nót tinh thần nhân bản rất chuyên cần. Thí dụ nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh khi kẻ dòng nhạc, nhạc sĩ không cho chúng tôi cầm thước kẻ mà phải dùng chính bàn tay không của mình, vì theo  nhạc sĩ nói “Để coi lòng dạ chúng ta có ngay thẳng hay không”.

Tôi tìm đến học với nhạc sĩ Anh Việt Thu trước hết vì mến mộ sự tài hoa của  nhạc sĩ khi viết những ca khúc êm ả, bình dị nhưng rất thâm sâu, rất giống bản tính đời thường của chính nhạc sĩ; kế nữa là hầu hết những sáng tác của nhạc sĩ đều nói về tình nghĩa anh em bạn bè thân thiết mà trong hoàn cảnh nào khi hát lên ai cũng có thể lấy đó làm nỗi niềm riêng cho chính mình. Và quan trọng hơn là chi tiết vào mùa Xuân năm 1965, nhạc sĩ Anh Việt Thu đã làm lễ cưới với cô Nguyễn Nữ Hiệp - hoa khôi trường Gia Long Sài gòn lúc đó tại một ngôi chùa lớn, nhìn qua ảnh vị chủ trì buổi lễ rất giống cố Hòa thượng Phó Tăng thống Thích Thiện Hòa (1907 – 1978) mà bây giờ chúng ta có tên gọi là Lễ Hằng thuận. Thật sự là một diễm phúc lớn.
 
 
Trong số những sáng tác được cấp phép biểu diễn hiện nay có thể kể đến Tám Điệp khúc, Đa Tạ, Gió Về Miền Xuôi, Mưa Cẩm Giang, Nhớ Nhau Hoài, Trong Cuộc Tình Sầu, Vang Bóng… Cũng như các nhạc sĩ khác sống giữa lòng Sài Gòn trước năm 75, để sống được bằng tài năng, ca khúc của mình, ai cũng phải dè chừng, nếu không thì cũng chỉ là viết lên những ẩn ý sâu xa. Đó là khi nghe Gió Về Miền Xuôi ai cũng cảm thương thân phận người vợ nhọc nhằn trước nỗi khổ của chiến tranh. “Gió về miền xuôi / qua bốn vịnh năm doi, đò vẫn đưa đưa ngược xuôi / Để em qua sông qua suối thăm chồng…”. Trong tình tự quê hương, khi nghe “Ở nơi đó, có còn không anh/ tháng giêng mưa bụi/ Tiếng trống chầu Hát Bội/ Lễ Kỳ yên… Tháng giêng mưa bụi / Vẫn mưa cài / Óng ả lụa Duy Xuyên…” (Vang Bóng). Bây giờ nghe lại bài “Lời Ru Tiếng Nhớ”, ngoài tự tình dân tộc đằm thắm có một chi tiết rất hay “Cho tôi sống lại một ngày / làm sao em đụn gạo chín bằng rơm…” khi hầu như  bây giờ ít ai, đặc biệt các bạn nữ còn biết nhóm lửa, vo gạo nấu cơm bằng lò củi, và nếu có khét (khê) thì cũng là thứ “cơm cháy” có mùi thơm riêng biệt, đáng nhớ muôn đời. Trong tình bạn, nghe bài “Đi Về Phía Mặt Trời” luôn xót thương cho bạn bè anh em “Nơi bạn bè/ rong chơi an nghỉ/ lần cuối cùng … Thương bạn bè, thương bạn qua sông qua suối/ không có đò…”. Hay như “Mưa Cẩm Giang”, (một địa danh ở huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, nằm trên quốc lộ 22B), với cơn mưa chiều bất chợt trong thơ của Trường Anh, nhạc sĩ Anh Việt Thu đã nắn nót những câu văn hay nhưng khi nghe thì tê tái, chạnh lòng “Thăm thẳm đường trường/ Tôi người cô độc/ Mòn gót giày cắm trọ quán đêm nay/ Mưa Cẩm Giang/ Như niềm đau ai khóc/ Đường sụt sùi qua mấy nẻo truông lầy…”. Ngày đó con đường này nắng thì gồ ghề, mưa thì lầy lội, đêm xuống buồn tê tái, cho nên khi nghe những từ như đường sụt sùi, mấy nẻo truông lầy  hay như mòn gót giày người nghe dễ liên tưởng đến sự mỏi gối cùng chân, mệt mỏi với lộ trình thăm thẳm xa xôi.

Có thể nói, nhạc sĩ Anh Việt Thu rất có duyên và thành công khi chọn phổ thơ thành những tác phẩm âm nhạc hay, đuợc công chúng ái mộ nhanh chóng, có lẽ một phần do nhạc sĩ có diễm phúc được giao du và kết thân với  những nhà thơ, nhà văn hàng đầu thời bấy giờ, biết lắng nghe và biết chia sẻ. Cho đến tận bây giờ, những thâm tình thân hữu ấy vẫn bền bỉ đến với nhạc sĩ, dù là bên mộ chí ở quê nhà  An Hữu (ảnh 4 - nhà thơ Thiên Hà bên phần mộ nhạc sĩ Anh Việt Thu tại  An Hữu - Cái Bè - Tiền Giang). Điều này thật chí lý khi người viết nhớ trong kinh Pháp Cú có câu “Nếu không gặp được bạn đồng hành, hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng”. 

Một bài thơ hay, một áng văn đẹp khi phổ thành nhạc sẽ làm sáng thêm ý nghĩa cũng như tôn cao thêm giá trị của cả tác phẩm thơ và nhạc. Chính vì vậy mà trước đây, người viết đã không ngần ngại, từng cho hai người em kết nghĩa mượn bút danh (Dương Như Tâm) của mình để thử làm một cuộc phổ thơ từ những nốt nhạc  đang còn học dỡ dang trong nhạc viện; và rất ngạc nhiên không hề  có một bài thơ nào đưa đến mà các em ưng ý, nếu có cũng chỉ là miễn cưỡng, kết cuộc tất cả phải buông bả tất cả, đề bây giờ trở thành những người điểu phối âm nhạc lớn cho các trung tâm nghệ thuật ở… nước ngoài!

Nhà văn Du Tử Lê nhận định rất chính xác rằng “Sự kiện này cho thấy, nhạc sĩ Anh Việt Thu không chỉ là một nhạc sĩ tài hoa; ông còn là một nhân cách đáng quý trọng trong đời thường nữa”.

Rất tiếc cơn bạo bệnh đã lấy đi sự sống của nhạc sĩ Anh Việt Thu khi chỉ mới 36 tuổi đời tại bệnh viện ngày 15/03/1975 (ngày mùng 03/02/Ất Mão). Xin được thắp lên nén nhang lòng, kính viếng hương linh cố nhạc sĩ Anh Việt Thu, người nhạc sĩ, người thầy tôi luôn ngưỡng mộ. Và bài viết này cũng xin mến tặng hai người em từng mang danh Dương Như Tâm của tôi, mong hai em vững tiến trên phím đàn, cho bạn bè, cho gia đình như chính cuộc đời của cố nhạc sĩ Anh Việt Thu.

Dương Kinh Thành
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Con không sợ cô đơn, nhưng không rõ lúc về già?

Phật giáo thường thức 17:05 23/04/2024

Hỏi: Con không sợ cô đơn, nhưng không rõ lúc về già, khi cơ thể mình bắt đầu thoái hoá đi, chân yếu tay run, hoặc không may đau ốm vào viện không có ai chăm sóc thì không biết phải làm sao? Xin Thầy chia sẻ cho con ít kinh nghiệm trong đời sống một mình khi về già ạ.

Về con chim hai đầu ở chùa Bút Tháp

Phật giáo thường thức 15:05 23/04/2024

Đây là con chim ở cõi Tây Phương Cực Lạc, có tên là Cộng Mệnh điểu (Chim đôi cùng mạng sống), được kinh điển Phật giáo ghi chép.

Một thiền giả rối trí đến gặp Đức Phật

Phật giáo thường thức 14:07 23/04/2024

Có một vị trưởng lão đáng kính vào thời Phật. Ông là người tu thiền nghiêm túc. Ông muốn tìm ra nguồn gốc mọi vấn đề nên đã đi đến nơi ẩn dật để thiền định.

Tâm nguyện của Đức Phật

Phật giáo thường thức 13:35 23/04/2024

Có tối và có sáng; có nóng và có lạnh; có sinh và có tử, và chắc hẳn phải có một trạng thái vượt trên cả sự sinh tử đó. Đức Phật, trước khi giác ngộ, đã suy xét và lý giải theo cách suy luận như vậy.

Xem thêm