Đức Phật nói “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”.
Lịch sử Trung tâm Nghiên cứu Pew (Pew Research Center), trụ sở ở Hoa Kỳ, Dự án Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo & Đời sống công cộng cho biết có một khoảng cách ngày càng lớn giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, khi nói đến sự chấp nhận về thuyết tiến hóa. Cụ thể, ông Obama và bà Clinton nhận được 69% và 67%, so với 43% dành cho ông McCain. Chỉ có 27% người Tin lành hiểu rằng “con người và những sinh vật sống khác đã phát triển theo thời gian”.
Thuyết tiến hóa Darwin diễn ra như thế nào? Thực tế đáng tiếc Hoa Kỳ là một trong những quốc gia tôn giáo nhất trên thế giới, cũng là một trong những quốc gia có người thiếu hiểu biết về khoa học nhất, đặc biệt là khi nói đến phát hiện quan trọng và chắc chắn “có thật” trong sinh học: Tiến hóa bằng cách chọn lọc tự nhiên.
Ảnh: Chân dung Charles Darwin (1809-1882), nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.
Là một nhà sinh vật học tiến hóa, tôi đã đích thân gặp nạn “mù chữ” khoa học này, đặc biệt là khi giảng dạy trong Kinh Thánh Belt. Đồng thời, tôi đã bị ấn tượng bởi sự hiểu biết khoa học của khán giả khi giảng dạy ở các quốc gia châu Á, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo. Hơn nữa, tôi ngày càng tin rằng mối tương quan này không phải là ngẫu nhiên. Với tư cách là một nhà sinh vật học, cùng với những người ủng hộ Phật giáo, đã thuyết phục tôi về tất cả các tôn giáo trên thế giới – và đặc biệt trái ngược với Ba Tư (Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo), Phật giáo rất thân thiện với khoa học.
Ở một mức độ nào đó, điều này có thể là do phần lớn Phật giáo – và chắc chắn, phần thu hút tôi – không phải là một “tôn giáo”, mà là một cách nhìn thực tại vào thế giới. Thật vậy, đức Phật vốn là một con người. Ngài sinh ra như một con người, sống như một con người và kết thúc cuộc đời như một con người. Mặc dù là một con người, Ngài đã trở thành một người phi thường (Acchariya manussa), nhưng không bao giờ tự cho mình là đấng thần linh. Đức Phật từng nhấn mạnh điểm quan trọng này và không để bất cứ ai rơi vào sai lầm khi nghĩ rằng Ngài là một đấng thần linh bất tử. May thay, không có sự thần thánh hóa nào trong trường hợp của đức Phật.
Tuy nhiên, phải để ý rằng không một bậc đạo sư nào "từng vô thần như đức Phật, mà cũng không có ai lại giống thần linh như thế".
Đức Phật không phải hiện thân của Thần Visnu Ấn Độ giáo như một số người đã tin, Ngài cũng không phải một đấng cứu thế rộng lượng cứu vớt người khác bằng sự cứu độ của chính mình. Đức Phật khuyên đệ tử trông cậy vào chính mình để giải thoát, vì cả sự thanh tịnh và nhiễm ô đều tùy thuộc nơi mình. Để thanh minh mối quan hệ của mình với đệ tử và nhấn mạnh điểm quan trọng phải trông cậy vào chính mình và nỗ lực cá nhân, đức Phật đã dạy rõ ràng: "Các con phải tự nỗ lực, các đức Như Lai chỉ là những bậc đạo sư".
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Tenzin Gyatso) nói rằng: “Giả sử một điều chắc chắn đã được chứng minh qua điều tra khoa học, rằng một giả thuyết nào đó đã được xác minh hoặc một thực tế nhất định xuất hiện như là kết quả của cuộc điều tra khoa học. Và giả sử, hơn nữa, rằng thực tế đó không tương thích với lý thuyết Phật giáo. Không có nghi ngờ rằng chúng ta phải chấp nhận kết quả của nghiên cứu khoa học”.
Hơn cả các tôn giáo khác – quả thật vậy, tôi sẽ nói, nhiều hơn bất kỳ tôn giáo nào khác – Phật giáo tự cho mình một cuộc đối thoại với khoa học. Tại sao? Bởi vì trong số các khía cạnh quan trọng của Phật giáo, chúng ta thấy sự khẳng định rằng kiến thức phải đạt được thông qua kinh nghiệm tu tập cá nhân, hơn là dựa vào các bản kinh văn được lưu truyền hoặc giáo lý của những bậc đạo sư có uy tín truyền trao lại. Vì định hướng của đạo Phật là hướng mọi người tự thực nghiệm hơn là nghe theo lý thuyết; và đạo Phật cũng từ chối bất kỳ quan niệm về sự tuyệt đối nào.
Sự phù hợp, thoải mái giữa Phật giáo và khoa học thực nghiệm đã được tạo điều kiện bởi một số giáo lý kinh điển, trong đó một trong những điều quan trọng nhất là “Kinh Kalama” (Kālāma Sutta - 卡拉瑪經):
Từ đầu đến cuối bộ “Kinh Kalama” toát lên sự tôn trọng lý trí, tôn trọng tự do tư tưởng, tính logic chặt chẽ của lập luận.
“Thời bấy giờ ở Ấn Độ có rất nhiều tôn giáo, nhiều trường phái triết học, học thuyết. Và người theo tôn giáo, triết phái, học thuyết nào, cũng đều cho rằng tôn giáo, triết phái, học thuyết của mình là chân lý và bài bác, đả kích các tôn giáo, triết phái và học thuyết khác là sai lầm. Những người Kalamas cư ngụ tại thị trấn Kesaputta cũng được nghe nhiều vị giảng sư tán dương tôn giáo này, học thuyết này và bài bác tôn giáo kia, học thuyết kia, cho nên họ sinh tâm ra hoang mang không biết đâu là phải, trái, đúng, sai. Họ đem sự hoài nghi, phân vân đó kính bạch lên đức Phật, khi Ngài đến thị trấn Kesaputta.
Đức Phật trả lời như thế nào? Ngài không bắt đầu từ chủ thuyết của mình, cũng không phê phán chủ thuyết của người khác. Nghĩa là thái độ của đức Phật khác hẳn với thái độ của các vị giáo chủ và luận sư mà người Kalamas thường gặp. Trước tiên, đức Phật khen người Kalamas hoài nghi và phân vân như vậy là đúng và đức Phật giải thích rằng lòng tin chân chính không nên và không thể dựa trên 10 căn cứ sai lầm sau đây:
1. Căn cứ Thần Khải (revelation), thí dụ, tín đồ đạo Bà la môn tin rằng, những điều ghi trong Kinh Veda là chân lý, vì rằng đó là những lời Thần Khải, những lời của Thần nói ra.
2. Căn cứ truyền thống, tin vào một điều được chấp nhận từ xưa và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tức là tin vào truyền thống, nhưng truyền thống cũng có thể sai và không thể là căn cứ đảm bảo của niềm tin chân chính.
3. Điều người ta kể lại, dù đó là tu sĩ, cha mẹ, bà con thân thiết, cũng không phải là căn cứ đảm bảo của niềm tin chân chính.
4. Điều hợp với kinh sách, dù kinh sách đó là Thánh điển, thí dụ, kinh Phật đối với phật tử, Kinh Veda đối với tín đồ đạo Bà la môn, Tân ước, Cựu ước đối với tín đồ đạo Kitô, v.v… cũng không phải là căn cứ đảm bảo của lòng chánh tín, bởi vì kinh sách chỉ là để hướng dẫn, tham khảo, chứ không phải để thay cho nhận thức và kiểm nghiệm cá nhân được.
5. Lập luận đơn thuần, siêu hình miên man, thường chỉ là lí luận suông, không phải là một cái nhìn vào chiều sâu chân lí, không phải là sự nắm bắt đối với thực tại.
6. Những dữ kiện được xem xét hời hợt, chỉ là những dữ kiện chết, không nói lên được gì hết, mặc dù chúng do thực tế cung cấp. Các dữ kiện phải được phân tích, tổng hợp như thế nào đó mới nói lên sự thực.
7. Dựa trên một quan điểm là một tiêu chuẩn không thể chấp nhận được, ngay ở Ấn Độ thời đức Phật, khi mà, các cuộc tranh luận và hội thảo tôn giáo và triết học cũng thường xuyên và sôi động như là “các cuộc thi đấu bóng đá hiện nay vậy”. Trong những tranh luận và hội thảo như vậy, người nào cũng giữ riêng và bảo vệ quan điểm của mình, tất nhiên, nhưng không thể lấy quan điểm đó làm tiêu chuẩn để phân biệt phải trái, hơn thua.
8. Dựa trên lý thuyết mình vốn chấp nhận, cũng như dựa trên quan điểm của mình không thể là căn cứ đảm bảo của chánh tín.
9-10. Dựa vào quyền uy, hay dựa vào sự tôn trọng đối với thầy học của mình, đều không thể là những chứng cứ đảm bảo của chánh tín. Vì trong các cuộc tranh luận và hội thảo về tôn giáo hay triết học, mỗi người tham gia đều có thầy của họ, đạo sư của họ và quyền uy của thầy chỉ là chỗ dựa của họ. Nhưng đó là chỗ dựa tin cậy của riêng mình. Không phải là chỗ dựa tin cậy của người khác, đang tranh luận với mình.
Sau khi đã giới thiệu 10 căn cứ không đáng tin cậy của niềm tin chân chính, đức Phật Thích Ca khuyến cáo những người Kalamas hãy nên tự biết mình, tự mình thấy, chứ không nên dựa vào quyền uy nào khác. Những điều gì là ác, là thiện, là trái, đều phải thông qua sự kiểm nghiệm của tự thân mình mới thấy rõ: nếu thực hiện những điều gì mà đem lại đau khổ, bất hạnh lâu dài cho mình và cho người khác thì đó là điều bất thiện, sai trái cần phải gạt bỏ đi; ngược lại, nếu thực hiện những điều gì đem lại hạnh phúc và an lạc lâu dài cho mình và cho những người khác, thì đó là những điều thiện, đúng đắn, cần phải duy trì và phát huy.
Tiếp đó, đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tam độc (tham, sân, si) còn điều thiện là do tâm không để tam độc (tham, sân, si) dẫn tới”.
Việc giảng dạy này được công bố rộng rãi, ủng hộ sự tự do trong tôn giáo và gạt bỏ những giáo điều cứng nhắc. Đây là một thái độ hoàn toàn mới, do đó phù hợp với khoa học. Hơn nữa, kinh Kalamas rất phù hợp với truyền thống khoa học phương Tây: Hội Hoàng gia London, tên đầy đủ là Hội Hoàng gia Luân Đôn vì sự cải thiện kiến thức tự nhiên và đó là thế giới đầu tiên và trong xã hội một thời gian dài, có uy tín, một khẩu hiệu của Hội Quý tộc Hoàng gia - Nullius inVerba – có nghĩa là: “Lời nói dù của người uy tín đến đâu cũng phải đánh giá lại”.
|
Ảnh: Đức Phật được điêu khắc tại Gandhara, Parkistan |
Một lần nữa, tuyên bố này được nhấn mạnh từ Pali Canon, nhà khoa học từng đoạt giải Nobel cao cấp, đã tư vấn cho các nhà nghiên cứu cơ sở trong phòng thí nghiệm của ông: “Cũng giống như người ta sẽ tách vàng bằng cách đốt nóng, cắt và mài dũa nên các nhà sư và học giả kiểm tra bằng việc thực chứng. Có thế chúng mới được chấp nhận, nhưng không phải chỉ là sự tôn trọng đối với tôi”.
Về sự cân bằng, có vẻ hợp lý và thích hợp khi Phật giáo được nhìn nhận ở phương Tây là tôn giáo tương đối phi lý, mê tín dị đoan – nhưng sự khái quát hóa này vẫn rất ít, giống như một hạt muối. Lưu ý rằng nhiều nơi trên thế giới, Phật giáo liên quan đến đời sống tín ngưỡng thường nhật của người dân, niềm tin vào bùa hộ mệnh, những điều bí ẩn khác và có cả những hiểu lầm cho rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một đấng thần linh ban phúc, giáng họa.
Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu ta tức là phỉ báng Ta!”.
Tin hay không tin những điều do đức Phật tuyên thuyết là quyền của mỗi chúng ta; nhưng chắc chắn chúng ta không thể nghi ngờ tấm lòng bi mẫn thương xót chúng sinh của đấng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đoạn kinh sau đây, đức Phật cho chúng ta thấy hậu quả tai hại của những người có tà kiến và kết quả tốt đẹp của những người có chánh kiến: “Này các gia chủ, trên đời này có những người mang nặng tà kiến cho rằng sự bố thí cúng dường không đem lại kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác cũng không đưa đến quả báo. Trên đời này không có những bậc chân chính hành trì chính pháp, thành tựu trí tuệ, chứng đạt đạo quả; sau khi chứng đạt, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Vì nguyên nhân tà kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung phải tái sinh vào ác thú, địa ngục”.
...“Và này các gia chủ, trên đời này có những người có chánh kiến, rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chính hành trì chính pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chính kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này”.
Qua đoạn kinh trên, chúng ta đã quá rõ thế nào là chính kiến và thế nào là tà kiến, lợi ích của chính kiến ra sao và tai hại của tà kiến là thế nào, nhờ vào trí tuệ đích thực chứ không có tín điều và tuyệt đối tôn trọng sự thật. Do đó, chấp nhận hay không chấp nhận những lời tuyên bố của đức Phật hoàn toàn thuộc quyền tự do tư tưởng của mỗi chúng ta chứ không phải ai khác. Chính quyền tự do tư tưởng này mới là bản chất đích thực của đạo Từ bi và Trí tuệ.
Tuy nhiên, tôi không khó khăn, mô tả ngài Tenzin Gyatso (tên trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là “Lhamo Dondrub”), miễn là điều này xác định ngôi vị của ngài ở vị trí thứ 14, theo cùng nghĩa Barack Obama là bốn mươi – Tổng tống thứ 44 của Hoa Kỳ, không có ngụ ý rằng ông đang ở trong bất kỳ cảnh nào trong kiếp tái sinh của George Washington!
Mặt khác, nếu tái sinh được dùng để tái chế nguyên tử và phân tử theo nghĩa đen, như được tiết lộ trong tiến trình sinh học và nếu nghiệp được giải thích như phản ánh thực tế của nguyên nhân, hiệu quả và không đề cập đến thực tế cơ bản khác, lựa chọn tự nhiên, theo đó “hành động” của tổ tiên chúng ta thực sự làm phát sinh bản thân và “hành động” của chúng ta ảnh hưởng đến thế hệ sau. Sau đó Phật giáo và sinh học có mối quan hệ mật thiết. Hơn nữa, việc giảng dạy về sự liên kết Phật giáo cơ bản cũng có thể đến từ một “bậc thầy” của sinh thái lý học.
Tóm lại, Stephen Jay Gould gọi sự hòa giải này là NOMA, “thẩm quyền không chồng chéo” (non-overlapping magisteria): “Khoa học cố gắng để minh chứng bằng những đặc tính thực của thế giới tự nhiên và phát triển những lý thuyết nhằm phối hợp và giải thích những sự thực này. Ở mặt khác, tôn giáo có tác dụng quan trọng tương tự, nhưng khác biệt hoàn toàn, các lãnh vực của mục đích nhân loại, các giá trị và ý nghĩa - những chủ đề mà căn cứ vào sự thực của khoa học có thể tỏa sáng, nhưng không bao giờ có thể giải quyết được”.
Gould trình bày điều này không phải như một quan điểm không tưởng, mà diễn đạt thực về lý do tại sao các lãnh vực của khoa học và tôn giáo không thể chồng chéo lên nhau. Như một giải pháp cho sự phức tạp của chúng ta, điều này thực không tốt. Trong tinh thần của chủ thuyết đa nguyên, nó đã bỏ qua những xung khắc hiển nhiên giữa tôn giáo và khoa học. Gould đã giải thích ý tưởng của ông bằng cách xác định lại các ý nghĩa của mình - lại các trò tiểu xảo cũ – vứt bỏ chủ thuyết sáng thế như thể một “tôn giáo không chính đáng” và xác định các nguồn thế tục của đạo lý, ý nghĩa và các giá trị như một “tôn giáo chính thống”.
Giải pháp NOMA (Thẩm quyền không chồng chéo) đổ vỡ vì những lý do khác. Mặc cho các khẳng định ngược lại của Gould, hiện tượng siêu nhiên không thể vượt ra ngoài hoàn toàn khỏi các học thuyết khoa học. Tất cả các nhà khoa học có thể nghĩ đến các nhận xét có thể thuyết phục họ về sự hiện hữu của Thượng đế hay các lực siêu nhiên.
Giải pháp NOMA (Thẩm quyền không chồng chéo), như Stephen Gould đã đề xuất tôn giáo và khoa học, tôi ấn tượng rằng Phật giáo mang lại triển vọng rằng sự giằng co của POMA (Magnesiumia - chồng chéo hiệu quả) – mặc dù chỉ sau khi loại bỏ yếu tố tôn giáo trong Phật giáo thì cốt lõi của đạo Phật là triết lý nhân sinh quan và thế giới quan sâu sắc, với những pháp môn tu tập, hành trì dung dị, với những yếu tố dễ thích nghi đã tạo nên những truyền thống Phật giáo đặc sắc ở mỗi quốc gia. Điều này đã tạo nên những “màu sắc” sống động của Phật giáo trên toàn thế giới. Nhưng thậm chí sau đó, tôi sẽ không nín thở cho đến khi Bible Belt America đồng ý với tôi.
Tiến sĩ Divid Barash
Vân Tuyền (Nguồn: Scientific American)
Đôi nét về tác giả: Cư sĩ David P. Barash sinh năm 1946, nhận bằng Tiến sĩ về động vật học (hành vi động vật và sinh học tiến hóa) vào năm 1970 từ Đại học Wisconsin và đã viết bài báo kỹ thuật đầu tiên về Phật giáo và sinh học vào năm 1973. Ông tham gia vào sự phát triển ban đầu của xã hội như một ngành khoa học, là một thành của Hiệp hội Hoa Kỳ vì sự tiến bộ của khoa học và là Giáo sư nổi danh chuyên khoa tâm lý học tại Đại học Washington, nổi tiếng với những cuốn sách về “Sự xâm lược của con người”, “Nghiên cứu Hòa bình”, “Hành vi tình dục của động vật và con người”. Giáo sư David P. Barash thường xuyên viết cho tờ The Chronicle of Higher Education,và thường xuyên được xuất bản bởi các tờ The New York Times, Los Angeles Times và Aeon Magazine. Ông đã viết hơn 250 bài báo kỹ thuật được đánh giá ngang hàng và là tác giả, đồng tác giả, đã chỉnh sửa 36 cuốn sách. Gần đây nhất là cuốn “Sinh học Phật giáo: Trí tuệ phương Đông cổ đại đáp ứng khoa học phương tây hiện đại”, xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Oxford. |