Thần thông trong đạo Phật
Thần Túc Thông, Thiên Nhãn Thông và Lậu Tận Thông còn được gọi là Tam Minh, nhằm nói lên khả năng giáo hóa, cứu độ của Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.
Thần thông (Abhijina-Abhinna) nghĩa là trí tuệ siêu nhiên, được hiểu là năng lực siêu phàm do tu tập Thiền Định mà có được nói chung, không riêng chỉ Phật Giáo. Các vị đạt được thần thông gọi là Thành Tựu Giả (Siddha).
Vào thế kỷ XII, một vị cao Tăng Ấn Độ có viết một cuốn sách nhan đề là Carturraciti-Siddha-Pravitti nói về hành trạng của 84 vị có thần thông từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII.
Đặc biệt, ở Tây Tạng có rất nhiều truyền thuyết và sách nói về thần thông của nhiều vị tu sĩ và người bình thường thuộc nhiều giới khác nhau.
Theo quan điểm Phật Giáo, những vị có thần thông không hẳn là những vị đạt ngộ và những vị đạt ngộ không hẳn là những vị có thần thông.
Thần Túc Thông, Thiên Nhãn Thông và Lậu Tận Thông còn được gọi là Tam Minh, nhằm nói lên khả năng giáo hóa, cứu độ của Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.
Thần Túc Thông, Thiên Nhãn Thông và Lậu Tận Thông còn được gọi là Tam Minh, nhằm nói lên khả năng giáo hóa, cứu độ của Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.
Kinh điển Phật Giáo thường nói đến sáu loại thần thông là:
1) Thần Túc Thông: là năng lực hiện thân tùy ý tại bất cứ nơi đâu.
2) Thiên Nhãn Thông là năng lực thấy cảnh huống vui khổ của tất cả chúng sinh.
3) Thiên Nhĩ Thông là năng lực nghe được mọi âm thanh của chúng sinh.
4) Tha Tâm Thông là năng lực biết được tâm ý của chúng sinh.
5) Túc Mạng Thông là năng lực biết được thọ mạng của mình và của chúng sinh từ muôn nghìn kiếp.
6) Lậu Tận Thông là năng lực đoạn trừ phiền não, sinh tử.
Những vị không tu thiền định của Phật Giáo cũng có thể đạt được năm thần thông đầu, ngoại trừ thần thông thứ sáu là Lậu Tận Thông.
Thần Túc Thông, Thiên Nhãn Thông và Lậu Tận Thông còn được gọi là Tam Minh, nhằm nói lên khả năng giáo hóa, cứu độ của Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.
Do có thần thông nên có thể thực hiện các phép biến hóa. Kinh điển Phật Giáo thường dựa theo tín ngưỡng dân gian của Ấn Độ thời xưa, thường miêu tả năng lực của Phật, Bồ Tát, A La Hán bằng các phép biến hóa gọi là thần biến.
Các bộ Du Già Sư Địa Luận, Pháp Hoa Huyền Tán, Giáo Thừa Pháp Số, Đại Tạng Pháp Số, Chân Ngôn Quảng Minh Mục…liệt kê 18 phép biến hóa, tuy nội dung đôi chỗ khác nhau nhưng tựu trung gồm việc hóa thân phía trên bốc lửa, phía dưới tuôn nước, biến nước thành lửa, biến lửa thành nước, hóa thân khắp nơi, đi đứng tự tại, ngồi trên hư không, phóng ánh sáng, an tâm chúng sinh khiến tiêu trừ bệnh tật, tai họa…
Cần nhớ rằng kinh điển mô tả các phép biến hóa trên, như là một phương tiện để ca ngợi khả năng siêu việt của các bậc chứng ngộ, như là một miêu tả ước lệ, tượng trưng cho sự diệu dụng của trí tuệ, siêu phàm.
Đức Phật từng phê phán bác các thần thông và khuyên các đệ tử không nên thể hiện thần thông. Ngài khẳng định thần thông cao nhất là thần thông hiểu pháp và truyền đạt pháp.
Thần thông và biến hoá trong Phật giáo
Đức Phật và các Thánh đệ tử thường đến thăm người bệnh, người sắp mất để truyền cảm ứng tâm linh giúp những vị này vượt qua sự đau đớn khiến tâm được an tịnh.
Đạo Phật nhằm đưa con người đến cứu cánh Đại Giải Thoát khỏi khổ đau của sinh tử luân hồi, chứ không phải nhằm khiến một số ít người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại, biến đá thành cơm, biến nước thành rượu…
Đức Phật và các Thánh đệ tử thường đến thăm người bệnh, người sắp mất để truyền cảm ứng tâm linh giúp những vị này vượt qua sự đau đớn khiến tâm được an tịnh.
Một phụ nữ đau khổ gần như điên loạn vì đứa con vừa mới chết, bà tìm đến cầu cứu Đức Phật, Ngài giúp bà hiểu rõ luật vô thường mà vơi đi sự đau khổ, chứ không làm cho đứa bé sống lại.
Ngài chế ngự con voi dữ, chế ngự kẻ hung bạo bằng sự thể hiện năng lực Từ Bi Tự Tại của Ngài, chứ không phải Ngài biến mất đi hay phóng thân lên không trung hay thực hiện những biến hóa khác.
Sự biểu hiện cụ thể thần thông Phật Giáo là đem sức cảm ứng, đem giáo pháp mà an tâm và tạo niềm tin cho người ta, từ đó người ta vơi đi hay dứt đi cái khổ nhất thời trên bước đường tu tập tìm về Đại Giải Thoát.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tinh hoa văn hiến Kinh Bắc trong dòng chảy văn hóa Phật giáo Việt: Danh nhân Vũ Trinh và thủ khoa – nghệ sĩ thị giác Vũ Tú
Nghiên cứuQua hai tấm gương: danh sĩ Vũ Trinh và thủ khoa Vũ Tú – một trí thức cổ; một nghệ sĩ hiện đại – chúng ta nhìn thấy tính đa dạng, tính linh hoạt của Phật giáo Việt Nam: không bó hẹp vào thiền viện, vào kinh kệ, mà lan tỏa vào văn hoá, triết học, mỹ thuật, đời sống thường nhật. Họ – mỗi người theo cách riêng – đều góp phần làm giàu cho di sản văn hóa Phật giáo Việt, giúp đạo Phật vừa giữ được cốt cách tâm linh, vừa hòa nhập với dòng chảy lịch sử, xã hội, nghệ thuật.
Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam
Nghiên cứuKinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứuCó thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứuPhật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Xem thêm














