Thắp nhang ngày tết: Nhớ về nguồn gốc ra đời từ 3500 năm trước
Bên cạnh lì xì hay đi chùa hái lộc, thắp nhang cầu an là một trong những phong tục của người Việt những ngày Tết.
>>Câu chúc Tết sư thầy dịp xuân Canh Tý 2020 ý nghĩa và an lạc nhất
Thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới là khoảng thời gian mà các gia đình thường chuẩn bị mâm cỗ cúng giao thừa, thắp nhang (hương) để cầu bình an cho một năm mới. Mỗi nén nhang mang sự kính trọng, trang nghiêm mà người thắp muốn gửi gắm.
Với người châu Á đặc biệt là tín đồ Phật giáo và Đạo giáo, thắp nhang đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng trong các dịp như đám giỗ, thăm viếng chùa chiềng, thắp nhang tổ tiên mỗi ngày.
Có nhiều loại nhang với màu sắc, hình dạng, kích cỡ khác nhau để sử dụng cho từng mục đích. Chúng ta có nhang màu vàng, màu đỏ hoặc đen. Nhang to thường sử dụng trong tang lễ, còn nhang xoắn ốc được treo tại chùa chiềng, đền thờ.
Nguồn gốc của nén nhang
Tại một số nước như Malaysia hay Singapore còn có loại nhang lớn với hình con rồng trang trí xung quanh. Trong y học cổ truyền, nhang được dùng để chữa bệnh. Thời hiện đại, nhiều người thích thắp nhang chỉ để thưởng thức mùi thơm của chúng.
Dù thắp nhang là phong tục của nhiều tôn giáo châu Á, theo các ghi chép lịch sử, nhang được phát minh bởi người Ai Cập từ cách đây khoảng 3.500 năm.
Trong Ebers Papyrus - loại giấy cói y học tổng hợp các loại thảo dược của người Ai Cập xưa đề cập cách họ tạo ra nhang, cầm theo bó rồi đốt cháy để tôn vinh các vị thần, chữa bệnh tật. Chúng có mùi dễ chịu, không quá nồng.
Thắp nhang được xem là nghi thức xua đuổi tà ma, cầu mong bình an. Trên thực tế, ngay cả người Babylon và Hy Lạp cũng có nghi thức này.
Người ta còn phát hiện bằng chứng khảo cổ với các đốt nhang được tìm thấy trong Văn minh lưu vực sông Ấn có niên đại khoảng 3.300 năm trước. Các nhà sử học đã tìm thấy vết tích loại dầu được cho là sử dụng để tăng mùi thơm của nhang.
Sau đó, người Ấn Độ kết hợp thêm các thảo mộc địa phương như hạt Sarsaparilla, nhũ hương và cây bách để tạo ra loại nhang của riêng họ.
Nén nhang du nhập đến châu Á như thế nào?
Tục thắp nhang xuất hiện tại Trung Quốc từ cách đây khoảng 2.000 năm, trở nên phổ biến trong các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu. Đến thời nhà Tống, thắp nhang đã trở thành một phần văn hóa Trung Quốc. Các nhà quý tộc đã xây dựng căn phòng riêng chỉ để thưởng thức mùi thơm của nhang.
Chưa biết chính xác nhang đã du nhập đến Trung Quốc như thế nào. Nhiều giả thuyết cho rằng những người đi theo Con đường Tơ lụa đã mang nén nhang đến Trung Quốc, các thương nhân nước ngoài như Ả Rập đã ảnh hưởng đến người Trung Quốc trong việc làm nhang.
Từ Trung Quốc, tập tục tiến đến Nhật Bản và Hàn Quốc. Các nhà sư đạo Phật tiến hành thắp nhang rồi giới thiệu cho người dân địa phương. Người Hàn Quốc thắp nhang khi thực hiện nghi thức rửa tội, trong khi quý tộc đốt nhang để giải trí. Việc thắp nhang cũng trở thành một phần văn hóa Nhật Bản từ thời kỳ Muromachi thế kỷ XV.
Thời gian trôi qua, các cuộc di cư của người Hoa đã mang theo tục thắp nhang đến nhiều nước Đông Nam Á. Tại Việt Nam, thắp nhang đã trở thành tập quán trong các ngày lễ hội như Rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, ngày Tết, lễ Phật đản, những ngày quan trọng trong gia đình như cúng giỗ, đám cưới, ăn tân gia… dùng để cúng những vị như Phật Bà Quan Âm, chư vị Phật, Táo Quân,…
Với lịch sử tồn tại hàng nghìn năm, nén nhang đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và trang nghiêm.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm