Tổ Tuệ Tạng trong lịch sử thống nhất Phật giáo Việt Nam
Tổ Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, Nam Định. Thân phụ là cụ ông Trần Tín, tự Phúc Châu; thân mẫu là cụ bà Vũ Thị Tú, hiệu Diệu Hòa.
Năm 1903, Hòa thượng được song thân cho phép xuất gia đầu Phật với Tổ Phúc Lâm, được ban Pháp danh Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng. Năm 15 tuổi (1909), Hòa thượng được thụ giới Sa-di. Năm 20 tuổi (1914), Hòa thượng được Bổn sư cho đăng đàn thụ giới Tỳ-khưu Bồ-tát tại Đại giới đàn chùa Phúc Lâm, Nam Định.
Sau nhiều năm tham học với Bổn sư tại chùa Qui Hồn (chùa Cồn), chốn Tổ Vĩnh Nghiêm, Tế Xuyên... năm 1905, do đức hạnh kiêm ưu, Hòa thượng được Bổn sư cử làm Giám tự chùa Qui Hồn. Đến khi Bổn sư viên tịch, Hòa thượng đã kế nghiệp Tôn sư trụ trì chùa Qui Hồn cho đến ngày xả bỏ báo thân vào ngày mùng 3 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1959).

Bằng tinh thần phụng sự Đạo pháp, phục vụ chúng sinh, kế vãng khai lai, báo Phật ân đức, nhất là làm cho Phật pháp trường tồn, chúng sinh an lạc. Do đó, Đạo pháp cần có người thừa kế và phát huy, nên năm 1920, Tổ cùng quý Hòa thượng chùa Dương Lai, chùa Duyên Bình, chùa Quế Phương thành lập Hội Tiến Đức Cảnh Sách, nhằm qui tụ những Tăng Ni hiếu học, có đức hạnh để giáo dục, đào tạo một thế hệ cho tương lai Đạo pháp, cho Phật giáo Việt Nam. Trụ sở Hội đặt tại chùa Quế Phương, do Tổ Quế Phương làm Hội trưởng, Hòa thượng là Phó Hội trưởng kiêm Giáo thụ, giảng dạy môn Luật học, do đó mà có những Luật sư nổi tiếng sau này trong Phật giáo.
Hòa với Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, Bắc Trung Nam trong những thập niên 1920-1930, năm 1934, Hòa thượng cùng Tổ Trung Hậu, Bằng Sở, các ngài Tố Liên, Trí Hải, cụ Nguyễn Năng Quốc và một số học giả, trí thức tín tâm, xin phép chính quyền đương thời thành lập Hội Bắc Kỳ Phật giáo, được chính quyền chấp thuận bằng Nghị định số 4283/NĐ ngày 06/11/1934. Trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ - Hà Nội. Hội có 32 thành viên, do cụ Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng và các Phó Hội trưởng: cụ Nguyễn Văn Ngọc, cụ Nguyễn Quốc Thanh; Thư ký: cụ Trần Văn Giáp, cụ Trần Văn Phúc; Thủ quỹ: cụ Nguyễn Văn Minh, cụ Phạm Mạnh Xứng; Kiểm soát: cụ Nguyễn Văn Cảnh, cụ Nguyễn Đình Quế; Cố vấn: cụ Lê Văn Phúc, Trần Văn Giác.
Ngoài công tác tổ chức thành lập Hội đoàn, Tổ còn phát huy công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam, cùng quý Hòa thượng Trung Hậu, Bằng Sở... thành lập trường Đại học Tăng học tại chùa Phúc Khánh; Trung học tại chùa Quán Sứ; Tiểu học tại chùa Cao Phong - Phúc Yên, chùa Côn Sơn Hương Hải - Hải Dương, do Hòa thượng Bằng Sở làm Giám viện. Đến năm 1940, 1942 quý Hòa thượng Bằng Sở, Trung Hậu viên tịch, Tổ đảm nhiệm công tác Giám viện các trường và giảng dạy, bảo dưỡng trong một thời gian dài đầy khó khăn của xã hội, đùm bọc 69 Tăng Ni sinh tu học ổn định và có hiệu quả, góp phần đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam.
Để công tác tổ chức và hệ thống lãnh đạo Phật giáo Việt Nam có nề nếp từ Trung ương đến địa phương, từ phạm vi hình thức đến nội dung, từ phạm vi đạo đức cho đến sinh hoạt Phật sự của Hội, năm 1936, nhân kỷ niệm năm thứ hai ngày thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ, Hội đã chính thức cử hành lễ suy tôn Tổ Vĩnh Nghiêm (Hòa thượng Thích Thanh Hanh) lên ngôi vị Thiền gia Pháp chủ, lãnh đạo tối cao Phật giáo Bắc Kỳ.
Năm 1945, sau khi cụ Nguyễn Năng Quốc từ nhiệm, Hòa thượng được Đại hội suy cử đảm nhiệm chức Hội trưởng Hội Phật giáo Bắc Kỳ kiêm Trưởng tòa Giáo lý của Hội.
Để kiện toàn tổ chức Tăng-già, Hòa thượng Thích Tố Liên đã thành lập Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Kỳ, đến năm 1950, được đổi tên là Giáo hội Tăng-già Bắc Việt, Đại hội đã suy tôn Hòa thượng Thích Mật Ứng lên ngôi vị Thiền gia Pháp chủ, lãnh đạo tối cao Phật giáo Bắc Kỳ. Có thể nói, vào thời điểm này, có hai tổ chức Phật giáo sinh hoạt. Một là Hội Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Tuệ Tạng làm Hội trưởng; Hai là Giáo hội Tăng-già Bắc Việt do Thượng tọa Tố Liên làm Hội trưởng. Cả hai hoạt động song hành, trong sự phát triển chung của Phật giáo Việt Nam, đồng thời có sự phân biệt rõ rệt, về việc sinh hoạt của hai giới tại gia và xuất gia. Cũng từ đó, đã hình thành các tập đoàn Phật giáo Bắc Trung Nam; gồm hai giới Cư sĩ và Tăng-già, hình thành sáu thành phần tham dự các Đại hội về sau.
Công cuộc thống nhất Phật giáo không dừng lại ở đây, mà còn tiến xa hơn nữa trong cao trào phát triển chung của cả nước. Qua lời hiệu triệu của ba vị Pháp chủ Bắc Trung Nam, Hòa thượng Mật Ứng, Hòa thượng Tịnh Khiết, Hòa thượng Đạt Thanh, về việc thống nhất Phật giáo Việt Nam, kết quả là sáu tập đoàn Phật giáo gồm Cư sĩ và Tăng-già vân tập tại chùa Từ Đàm - Huế ngày 06/5/1951 cử hành Đại hội thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam, gồm Ban Chứng minh Đạo sư và Tổng Trị sự.
Ban Chứng minh: Hòa thượng Thích Mật Ứng, Hòa thượng Thích Tuệ Tạng, Hòa thượng Thích Giác Nhiên, Hòa thượng Thích Giác Nguyên, Hòa thượng Thích Tuệ Chân, Hòa thượng Thích Đạt Thanh.
Ban Tổng Trị sự:
Hội chủ: Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
Phó Hội chủ: Thượng tọa Thích Trí Hải/ Ông Lê Văn Định
Tổng Thư ký: Ông Tráng Đinh
Phó Tổng Thư ký: Thượng tọa Thích Định Trí/ Ông Tống Hồ Cầm
Thủ quỹ: Cụ Lê Mộng Đào
Kiểm lý ngân sách: Cụ Phạm Văn Phúc
Ủy viên Hoằng pháp: Thượng tọa Thích Trí Quang
Ủy viên Nghi lễ: Thượng tọa Thích Tố Liên
Ủy viên Giáo dục: Thượng tọa Thích Thiện Hòa
Ủy viên Thanh niên: Ông Võ Đình Cường
Ủy viên Mỹ thuật: Ông Nguyễn Hữu Ba
Ủy viên Tài chính: Ông Lê Toại
Ủy viên Tổ chức: Ông Nguyễn Đóa
Ủy viên Cứu tế Xã hội: Ông Phạm Văn Vi
Ủy viên Dự khuyết: Ông Tôn Thất Tùng/ Ông Nguyễn Hữu Huỳnh/ Ông Đỗ Đình Oánh.
Kể từ năm 1951, Hòa thượng là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của Phật giáo Việt Nam, có nhiệm vụ chăm lo đời sống tinh thần, giới luật và kỷ cương của Hội, bảo lưu dòng sinh mệnh Phật giáo Việt Nam trong phạm vi cả nước.
Đến năm 1952, do Hòa thượng Tố Liên, Hòa thượng Trí Hải chủ xướng để phát huy tinh thần Tăng-già thành một tổ chức Giáo hội như thời Phật còn tại thế, nhất là phù hợp với trào lưu tư tưởng và phát triển của thế giới, nhu cầu của thời đại. Do đó, Đại hội Tăng-già toàn quốc được thành hình, gồm Tăng Ni ba miền Nam, Trung, Bắc tập họp về chùa Quán Sứ - Hà Nội, thảo luận bản Quy chế Giáo hội Tăng-già Việt Nam. Sau khi đã thống nhất, Đại hội tiến hành vào ngày 07/9/1952, thành lập Giáo hội Tăng-già toàn quốc Việt Nam. Đại hội suy tôn Hòa thượng Tuệ Tạng lên ngôi vị Thượng thủ Giáo hội Tăng-già Toàn quốc Việt Nam, lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Việt Nam, làm sống dậy tinh thần Tăng thống của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Đồng thời, một Hội đồng Trị sự hình thành, gồm:
Trị sự trưởng: Hòa thượng Thích Trí Hải
Trị sự phó: Thượng tọa Thích Tâm Châu
Tổng Thư ký: Thượng tọa Thích Tố Liên
Phó Thư ký: Thượng tọa Thích Hải Ninh
Thủ quỹ: Thượng tọa Thích Viên Tu
Giám luật kiêm Nghi lễ: Thượng tọa Thích Đôn Hậu
Trưởng ban Giáo thụ: Thượng tọa Thích Thiện Hòa
Trưởng ban Hoằng pháp: Thượng tọa Thích Thiện Siêu
Trưởng ban Tăng tịch: Thượng tọa Thích Thanh Tòng
Dự khuyết: Thượng tọa Thích Vĩnh Tường/ Thượng tọa Thích Mật Hiển/ Thượng tọa Thích Mật Nguyện.
Vào thời điểm nầy, tại Việt Nam có hai tổ chức Phật giáo hoạt động song hành, nhưng hỗ tương và tác động lẫn nhau trong các công tác Phật sự của hai giới, là Tổng hội Phật giáo Việt Nam và Giáo hội Tăng-già Toàn quốc Việt Nam.
Năm 1954, sau khi đất nước bị chia cắt, Phật giáo Việt Nam sinh hoạt thành hai mảng, nhưng lúc nào cũng mong muốn tái hiệp nhất như thuở ban đầu của Phật giáo Việt Nam.
Năm 1958, tại miền Bắc, Hội nghị thành lập Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, gồm các thành viên của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Tăng-già Toàn quốc Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Bắc Kỳ, Hội Phật giáo Việt Nam tại Bắc Kỳ thành một tổ chức duy nhất, với Ban Trị sự Trung ương như sau:
Hội trưởng: Hòa thượng Thích Trí Độ
Phó Hội trưởng: Hòa thượng Thích Đức Nhuận/ Hòa thượng Thích Tâm An/ Cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám
Ủy viên Thường trực: Hòa thượng Thích Thế Long/ Hòa thượng Kim Cương Tử (Thanh Cung)/ Hòa thượng Thích Thuận Đức/ Thượng tọa Thích Tâm Thông/ Thượng tọa Thích Thanh Tứ.
Tại miền Nam, sau cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm cáo chung, Phật giáo miền Nam thoát cơn Pháp nạn. Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo tiến hành tổ chức Đại hội thống nhất Phật giáo, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất diễn ra tại chùa Xá Lợi - Sài gòn từ ngày 30 - 31/12/1963 đến ngày 01/01/1964 gồm các Giáo hội, tập đoàn Phật giáo trong UBLPBVPG, gồm Tổng hội Phật giáo Trung phần, Giáo hội Tăng-già Trung Việt, Giáo hội Tăng-già Nam Việt, Giáo hội Tăng-già Bắc Việt tại miền Nam, Giáo hội Tăng- già Nguyên thủy Việt Nam, Giáo hội Thiền Tịnh Đạo tràng, Giáo phái Tăng sĩ Theravada, Hội Phật học Nam Việt, Hội Phật học Trung phần, Hội Phật giáo Nguyên thủy, Hội Phật tử Nguyên thủy Sơn Thái Nguyên, Hội Phật tử Bắc Việt tại miền Nam.
Đại hội suy cử hai Viện: Viện Tăng thống và Viện Hóa đạo.
- Viện Tăng thống:
Tăng thống: HT.Tịnh Khiết
Phó Tăng thống: HT.Tối Thắng
Trưởng lão VTT: HT.Lâm Em/ HT.Thanh Thái/ HT.Hải Tràng/ HT.Phúc Hộ
Chánh Thư ký: TT.Trí Quang
Phó Thư ký: TT.Giới Nghiêm/ TT.Thạch Gồng/ TT.Đức Tuệ
- Viện Hóa đạo:
Viện trưởng: TT.Tâm Châu
Phó Viện trưởng: TT.Thiện Hoa/ TT.Pháp Tri/ Cư sĩ Mai Thọ Truyền
Tổng vụ Tăng sự: TT.Trí Tịnh
Tổng vụ Pháp sự: TT.Quảng Liên (Văn hóa, Giáo dục, Nghi lễ, Xã hội)
Tổng vụ Hoằng pháp: TT.Trí Thủ
Tổng vụ Cư sĩ: TT.Tâm Giác
ĐT. TC Kiến thiết: TT.Pháp Tri (kiêm)
Tổng vụ Thanh niên: TT.Thiện Minh
Tổng Thư ký: TT.Huyền Quang
Tổng Thủ bổn: TT.Từ Nhơn.
Sau ngày 30/4/1975, khi nước nhà thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà, Phật giáo Việt Nam lại có duyên thống nhất sau gần 30 năm bị phân tán.
Tại thủ đô Hà Nội, chùa Quán Sứ lại một lần nữa chứng kiến một lịch sử trọng đại về công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra từ ngày 04 - 07/11/1981, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đại hội quy tụ chín Tổ chức, Hệ phái Phật giáo Việt Nam trong cả nước, đại diện cho hơn 45 triệu Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, gồm: Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam (do Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Quyền Hội trưởng), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Viện trưởng); Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam (do Hòa thượng Thích Bửu Ý làm Viện trưởng), Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (do Hòa thượng Thích Giác Nhu làm Tổng Thư ký Ban Trị sự Trung ương), Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP.Hồ Chí Minh (do Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ tịch), Giáo hội Thiên Thai Giáo Quán Tông (do Hòa thượng Thích Đạt Hảo làm Trị sự trưởng), Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam (do Hòa thượng Thích Giới Nghiêm làm Tăng thống), Hội Sư sãi Yêu nước miền Tây Nam Bộ (do Hòa thượng Châu Mum làm Hội trưởng), Hội Phật học Nam Việt (do Cư sĩ Tăng Quang làm Phó Hội trưởng kiêm Tổng Thư ký).
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, có hai Hội đồng: Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự.
Hội đồng Chứng minh do Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Pháp chủ, tương đương với ngôi vị Thượng thủ, Tăng thống của Phật giáo Việt Nam ngày trước, do Tổ Tuệ Tạng đảm nhiệm. Các nhiệm kỳ sau do Hòa thượng Thích Tâm Tịch, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ làm Pháp chủ.
Hội đồng Trị sự gồm:
Chủ tịch: Hòa thượng Thích Trí Thủ
Phó Chủ tịch Thường trực: Hòa thượng Thích Thế Long/ Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Phó Chủ tịch: Hòa thượng Thích Thanh Chân/ Hòa thượng Châu Mum/ Hòa thượng Thích Giới Nghiêm/ Hòa thượng Thích Giác Nhu/ Hòa thượng Thích Bửu Ý/ Hòa thượng Thích Thiện Hào
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu PHVN kiêm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế: Hòa thượng Thích Minh Châu
Phó Tổng Thư ký: Thượng tọa Thích ThanhTứ/Thượng tọa Thích Từ Hạnh
Trưởng ban Tăng sự: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Trưởng ban Hoằng pháp: Hòa thượng Thích Trí Quảng
Trưởng ban Nghi lễ: Hòa thượng Kim Cương Tử
Trưởng ban Văn hóa: Cư sĩ Võ Đình Cường
Trưởng ban Hướng dẫn Nam nữ Cư sĩ Phật tử: TT.Thích Thanh Hiền
Ủy viên Tài chính: Thượng tọa Thích Thanh Chỉnh/ Cư sĩ Tăng Quang
Ủy viên Thủ quỹ: Thượng tọa Thích Thuận Đức/ Cư sĩ Nguyễn Thị Thanh Quyên
Ủy viên Kiểm soát: Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên/ Cư sĩ Tống Hồ Cầm.
Hơn 35 năm thống nhất Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay cũng như Phật giáo trong những thập niên 1940, 1950 đã trải dài trên đất nước Việt Nam từ ải Nam Quan (Lạng Sơn) đến mũi Cà Mau (An Xuyên); Phật giáo Việt Nam ngày nay là một thể thống nhất của Phật giáo Việt Nam từ 2.000 năm lịch sử truyền thừa trong lòng dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam thân yêu.
Dư âm Thượng thủ Giáo hội Tăng-già Toàn Quốc Việt Nam, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Pháp chủ GHPGVN là ngôi vị lãnh đạo tối cao về mặt tinh thần Phật giáo, duy trì kỷ cương Giáo hội, chứng minh hộ trì các Phật sự trọng đại của Giáo hội, của Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam ngày nay đã phát triển một cách toàn diện từ hình thức đến nội dung, từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước lan ra, ảnh hưởng đến thế giới trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước, xã hội và cộng đồng quốc tế một cách ổn định, bền vững trong hiện tại và mai sau.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Tánh (1941 - 2025)
Tăng sĩTrưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Tánh (thế danh Nguyễn Minh Tâm) sinh năm 1941 tại thôn Tân Lộc, tổng Minh Hóa, tỉnh Kiến Hòa (nay thuộc xã Phước Mỹ Trung, tỉnh Vĩnh Long).
Hòa thượng Nhật Thiện - một đời hành đạo, tịnh tu, hoằng truyền chánh pháp
Tăng sĩHòa thượng thượng Nhật hạ Thiện, nối dòng Thiền Lâm Tế pháp phái đời thứ 40, họ Nguyễn, sinh năm Canh Ngọ (1929) tại làng Tân Nhuận Đông, Nha Mân, Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp).
Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Từ Thông (1928 - 2025)
Tăng sĩHuyễn thân tứ đại đến hồi suy yếu, định luật vô thường không hẹn cùng ai, dù tứ thể bất an nhưng ngài vẫn tự tại trong chánh niệm.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Đỗng Quang
Tăng sĩDanh xưng Đức hiệu Đại Giới đàn Cam Lộ - Đỗng Quang do Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Gia Lai đăng cai tổ chức, từ ngày 5 đến 10/11/2025 (nhằm ngày 16 đến 21/9/Ất Tỵ).
Xem thêm














