Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ bản sinh kinh theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(本生經) Bản sinh,Phạm,Pàli:jàtaka.Dịch âm là Xà đa già, Xà đà già, Xã đắc ca, dịch ý là Bản khởi, Bản duyên, Bản sinh đàm. Nói tắt là Sinh. Là một trong chín bộ kinh, một trong mười hai bộ kinh. Nội dung kinh điển Phật có thể chia làm chín thể loại, mười hai thể loại, gọi là chín bộ kinh, mười hai bộ kinh, kinh bản sinh tức là một thể loại trong đó. Chủ yếu ghi chép tường thuật các sự tích của đức Thích ca trong các kiếp quá khứ đã sinh làm nhiều loại thân hình và thân phận khác nhau mà tu hành đạo Bồ tát. Trong đó cũng gồm có những sự tích bản sinh liên quan đến các đệ tử như bồ tát Di lặc, và chư Phật như Phật A di đà. Trong kinh tạngPàli, ngoài bốn bộ Ni kha da (Pàli: nikàya, tương đương với A hàm Hán dịch), còn có bộ thứ năm là Tiểu bộ kinh (Pàli: Khuddaka nikàya), gồm mười lăm kinh điển, trong đó, kinh thứ 10 thu chép các loại sự tích bản sinh, miêu tả tường thuật đức Thích ca đã mang những thân hình quốc vương, thầy Bà la môn, lái buôn, đàn bà, và các loại động vật như voi, vượn, hươu, gấu v.v... , hoặc cứu chúng sinh qua khỏi tai nạn hiểm nguy, hoặc vì cầu Pháp mà tinh tiến tu hành các thiện nghiệp công đức. Toàn bộ có tất cả năm trăm bốn mươi bảy (hoặc bảo năm trăm bốn mươi sáu) loại sự tích bản sinh, phần nhiều viết bằng hai thể văn xuôi và văn vần, đồng thời, lại căn cứ theo thiên, đoạn dài ngắn hoặc số kệ tụng nhiều ít mà chia làm hai mươi hai tập (Pàli: nipàta, thiên), trong đó, tập thứ nhất đến tập thứ tám còn lập riêng tên phẩm. Tính chất của kệ trường thiên là sự tích bản sinh độc lập, đầu cuối nhất quán; kệ ngắn thì là những lời vàng nhắm mục đích cảnh tỉnh người đời, cũng như một loại đồng dao, phần nhiều không giống với thể văn sự tích bản sinh phổ thông. Cả hai đều không phải đã lấy kệ trong Bản sinh chú làm căn cứ, mà chỉ thu dụng đại ý trong các sự tích bản sinh mà thôi. Trong kinh đầy dẫy tinh thần hi sinh: giáo chỉ đại bi lợi tha của Phật giáo Đại thừa có lẽ cũng đã phôi thai từ đó; lại sáu pháp Ba la mật e cũng đã từ các loại bản sinh đàm này mà được phân loại và tổ chức thành các hạnh Bồ tát ấy chăng? Kinh Bản sinh vănPàli được biên tập thành sách vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch, không rõ tác giả, có lẽ người bấy giờ đã dựa vào những truyện cổ tích lưu hành ở đương thời làm mẫu, rồi dung hoà thêm sắc thái Phật giáo mà thành. Đến thế kỉ thứ XIX, nhà học giả Đan mạch là Hào tư bối nhĩ (Fausbôll, Micheal Viggo), đã bỏ công sức ra trong hai mươi năm (1877 - 1897), so sánh, đối chiếu kĩ càng các bản viết của kinh Bản sinh vănPàli tại các nước Tích lan, Miến điện, cộng có sáu quyển, quyển đầu lại thêm cả truyện Phật do ngài Phật âm trứ tác, rồi cho ấn hành, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với giới học Phật phương Tây. Ngoài tạng kinh Pàli ra, các sự tích bản sinh còn được thấy trong các tác phẩm văn học tiếng Phạm, như Cố sự tập (Phạm: Paĩcatantra, dịch âm: Ngũ đát đặc la), Cố sự tổng hối (Phạm:Kathàsarisàgara), và Bản sinh man (Phạm: Jàtakamàlà). Trong mười hai bộ kinh, các kinh điển Hán dịch thuộc loại kinh Bản sinh thì có: Lục độ tập kinh, Sinh kinh, Thí dụ kinh, Hiền ngu kinh, Tạp bảo tạng kinh, Soạn tập bách duyên kinh, Bồ tát bản hành kinh, Bồ tát bản duyên kinh, Bồ tát bản sinh man luận v.v... Trong đó, Bồ tát bản sinh man luận là do sư Tuệ tuân đời Bắc Tống dịch từ tác phẩm Bản sinh man bằng tiếng Phạm, cộng có ba mươi tư loại sự tích Bản sinh, dịch thành mười sáu quyển. Ngoài ra, trừ những bản in bằng các thứ văn được ghi ở trên mà đến nay đã ngưng ra, tại các nước Tích lan, Miến điện, Thái lan, kinh Bản sinh cũng được xuất bản, nhưng chỉ có nguyên văn mà thôi. Còn tại Nhật bản và châu Âu, thì kinh Bản sinh được xuất bản chung với bản dịch Bản sinh chú hợp làm một. Sự tích bản sinh của đức Thích tôn từ ngàn xưa đã được sùng tín một cách sâu xa, dân chúng phổ thông cũng rất thích dùng làm đề tài cho hội họa và điêu khắc, cho nên các di tích mĩ thuật Phật giáo có liên quan đến sự tích bản sinh của đức Phật đã được thấy rải rác tại Ấn độ, Trung quốc và các nước vùng Nam hải. Đồng thời, sự tích bản sinh, song song với sự phát triển của Phật giáo, cũng lưu truyền một cách rộng rãi, và truyền cả đến các nước phương Tây, trở thành nền văn học thông tục có tính quốc tế, và nguồn gốc của sự giáo huấn đạo đức. Những ngụ ngôn của Y sách (Esop) tại cổ Hi lạp, những sự tích đồng thoại trong Thiên phương dạ đàm, văn học ngụ ngôn của A lạp bá (Arabia), tức cũng đã có mối quan hệ uyên nguyên sâu xa với kinh Bản sinh của Phật giáo. Sự tích bản sinh cũng thấy rải rác trong các tác phẩm Kim tích vật ngữ, Vũ tích thập di vật ngữ của Nhật bản. Có thể nói, đứng về phương diện nghiên cứu ngọn nguồn và sự truyền bá của nền văn học thế giới, văn học tỉ giảo và lịch sử giao lưu mà nói, kinh Bản sinh đã chiếm một địa vị và giá trị cực kì trọng yếu. [X. kinh Đại ban Niết bàn (bản Nam) Q.14; Thiện kiến luật tì bà sa Q.1, Q.2; luận Đại tì bà sa Q.1; luận Đại trí độ Q.33; luận Du già sư địa Q.25; Đại đường tây vực kí Q.3; Rhys Davids: Buddhist India; M. Winternitz: Geschichte der indischen Literature, Bd. II; B. C. Law: A History of Pàli Literature]. (xt. Bản Sinh Đồ, Bản Sinh Man).
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
bà bá ba bả bà ba bà Ba ải bá âm ba baTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)