Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ biến tướng theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(變相) Chỉ cho các bức tranh dựa vào những ghi chép trong các kinh điển mà vẽ lại sự tích tiền thân (bản sinh) của đức Phật, hoặc cảnh Tịnh độ trang nghiêm và tướng trạng các địa ngục... nhằm phổ biến giáo nghĩa. Cũng gọi Biến tượng, Biến hội, gọi tắt là Biến. Biến, hàm ý là biến động, biến chuyển, tức miêu tả các động thái thực bằng cách vẽ hoặc chạm trổ, như vẽ về cảnh Tịnh dộ của Phật A di đà, thì gọi là Di đà tịnh độ biến; vẽ cảnh Tịnh độ của bồ tát Di lặc trên cung trời Đâu suất, gọi là Di lặc tịnh độ biến, dựa vào kinh Hoa nghiêm mà vẽ bảy chỗ tám hội hoặc bảy chỗ chín hội, gọi là Hoa nghiêm biến tướng; vẽ các cảnh địa ngục gọi là Địa ngục biến tướng... Cứ theo Lạc dương già lam kí quyển 5 chép, thì vị tăng thời Bắc Ngụy là ngài Huệ sinh từng đã bắt chước tháp Tước li ở nước Kiện đà la mà vẽ Thích ca tứ tháp biến (cảnh bốn ngôi tháp của đức Thích ca; Tháp ở các chỗ Phật giáng sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, vào Niết bàn). Lại trong các bức chạm trổ và tranh vẽ trên vách cũ ởZànchìvàBhàrhut còn đến nay, cũng có nhiều biến tướng về sự tích tiền thân và tiểu sử của đức Phật; điều đó cho thấy Ấn độ từ xưa đến nay đã có những bức điêu khắc hoặc hội họa về đủ loại biến tướng. Tại Trung quốc và Nhật bản, những biến tướng lúc đầu phần nhiều là cảnh Tịnh độ của đức Phật A di đà, Dược sư, Thích ca, Quan âm, Di lặc và cảnh tiếp dẫn của Phật A di đà, bồ tát Quan âm và Di lặc, về sau đã có những bức tranh vẽ Hoa nghiêm biến tướng, Pháp hoa biến tướng, Địa ngục biến tướng, Thập vương biến tướng... Ngoài ra, những biến tướng trọng yếu khác, còn có bốn biến tướng bản sinh khắc trên bốn mặt tháp của chùa A dục vương ở huyện Mậu: Tát đỏa vương tử biến (cảnh Vương tử Tát đỏa), Xả nhãn biến (cảnh bỏ mắt), Xuất não biến (cảnh cho óc), Cứu cáp biến (cảnh cứu chim bồ câu) và Cổ kim phiên dịch đồ biến Tranh Tịnh Độ Biến Tướng ở Đôn Hoàng (Trung Quốc) (cảnh phiên dịch Niết Bàn Biến kinh xưa nay) vẽ trên vách của nhà dịch kinh ở chùa Đại từ ân. Trong chùa Bồ tát ở phường Bình khang, có Trí độ luận sắc kệ biến và Duy ma biến do Ngô đạo huyền vẽ; trên vách hành lang trong chùa Đông sơn ở núi Hoàng mai có Lăng già kinh biến do Lư trân vẽ v.v...Tại Nhật bản cũng có các loại biến tướng như: Tứ phật tịnh độ, Bản địa thùy tích, Nhị tôn khiển nghinh v.v... Trong các bức biến tướng, có bức chỉ có hai hoặc ba hình tượng, nhưng đại đa số các bức khác thì có tới vài mươi thậm chí cả trăm hình tượng gồm: Phật, Bồ tát, các trời, người và các loại súc sinh, phối với cung điện, lầu gác, núi sông, cây cối, hoa cỏ v.v... nét vẽ và màu sắc rất là phức tạp. Lại tùy theo chất liệu mà có các loại biến tướng khác nhau, như vẽ trên vách, vẽ trên cột, vẽ trên lụa, giấy, hoặc chạm vào gỗ, khắc trên đá, nặn bằng đất v.v... Ngoài ra, tại Nhật bản, Tịnh độ biến tướng cũng được gọi là Tịnh độ mạn đồ la, nhưng đây là do chịu ảnh hưởng của Mật giáo mà gọi lầm, chứ thực ra ý nghĩa biến tướng và mạn đồ la khác nhau rất xa. [X. kinh Bất không quyên sách thần biến chân ngôn Q.15; Hữu bộ tì nại da tạp sự Q.17; Cảnh đức truyền đăng lục Q.3 Hoằng nhẫn truyện; Khai nguyên thích giáo lục Q.10; Cao tăng pháp hiển truyện Sư tử quốc Vô uy sơn tinh xá điều]. (xt. Mạn Đồ La).
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
bà bá ba bả bà ba bà Ba ải bá âm ba baTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)