Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ nguỵ nghi kinh theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(僞疑經) Cũng gọi Nghi ngụy kinh. Kinh bị ngờ là kinh giả. Từ ngữ gọi chung những kinh ngụy tác, hoặc có nguồn gốc đáng ngờ và bị nghi là kinh giả. Bởi vì ở Ấn độ có không ít những kinh giả mượn lời Phật nói, nhằm mục đích làm hỗn loạn giáo lí của đức Phật. Nhưng, những kinh điển mà ngày nay gọi là ngụy kinh là chỉ cho các nước Trung quốc, Nhật bản, phỏng theo kinh luận mà chế tác rồi cho là phiên dịch từ kinh văn tiếng Hồ từ Tây vực hay tiếng Phạm từ Ấn độ; hoặc trà trộn với tư tưởng ngoại lai, hoặc các tôn giáo khác, thậm chí các kinh điển của tín ngưỡng dân gian cũng được coi là chân kinh mà xếp vào Đại tạng. Vấn đề Ngụy kinh được nêu ra đầu tiên là do các nhà biên soạn Mục lục kinh, họ cho rằng Ngụy kinh làm rối loạn Chân kinh và làm đảo lộn chân lí do đức Phật tuyên dương, bởi thế họ chủ trương tất cả kinh phiên dịch đều do đức Phật nói, trái lại là ngụy kinh. Xuất tam tạng kí tập của ngài Tăng hựu đời Lương thuộc Nam triều nêu ra những Nghi kinh được liệt kê trong Tông lí chúng kinh mục lục của ngài Đạo an đời Tiền Tần, như: Kinh Bảo Như lai... gồm 26 bộ 30 quyển, rồi liệt kê những ngụy kinh do chính ngài Tăng hựu sưu tập như: Kinh Tỉ khưu ứng cúng pháp hành... gồm 20 bộ 26 quyển trong Tân tập nghi kinh Ngụy soạn tạp lục, lại thêm những ngụy kinh được ghi trong Nghi lục của Tăng pháp như: Kinh Bảo đính... gồm 44 bộ. Tổng cộng có 70 bộ kinh Nghi ngụy. Chúng kinh biệt lục trong Lịch đại tam bảo kỉ quyển 15, liệt kê Ngụy kinh có 17 bộ 20 quyển. Ngụy thế chúng kinh mục lục của Lí khuếch ghi Ngụy kinh 62 bộ, Ngụy luận 4 bộ. Đại đường nội điển lục quyển 10 ghi 183 bộ 334 quyển. Đại chu san định chúng kinh mục lục quyển 15 liệt kê 228 bộ 419 quyển. Nghi hoặc tái tường lục trong Khai nguyên thích giáo lục quyển 18 ghi 14 bộ 19 quyển; Ngụy vọng loạn chân lục cũng trong Khai nguyên thích giáo lục liệt kê 392 bộ 1055 quyển. Thông thường, kinh Nghi ngụy theo thời đại mà tiếp tục tăng lên. Vào thời ngài Đạo an đời Tiền Tần mới chỉ có 26 bộ 30 quyển. Đến thời ngài Tăng hựu đời Lương tăng lên 46 bộ, 56 quyển, tăng khoảng gấp đôi; thời ngài Ngạn tông đời Tùy lại tăng lên 209 bộ, 490 quyển. Đến thời ngài Trí thăng đời Đường lại tăng lên gấp đôi là 406 bộ, 1074 quyển. Đời Tùy, Đường được xem là thời kì toàn thịnh của Phật giáo Trung quốc, mà cũng là thời kì các kinh Nghi ngụy thịnh hành. hưng trong Khai nguyên thích giáo lục, ngài Trí thăng đã loại bỏ toàn bộ cáckinh giả và bị ngờ là giả ra khỏi Đại tạng, do đó, con số 406 bộ, 1047 quyển Ngụy kinh nói trên không được đưa vào Đại tạng; bởi thế, những kinh Nghi ngụy lưu hành trong dân gian thời bấy giờ, đến nay chỉ còn nghe tên, thậm chí đã mất hẳn. Tuy nhiên, trong Đại tạng hiện nay vẫn còn 1 số ít kinh Nghi ngụy. Thời gần đây, 1 số lượng lớn kinh điển Phật được tìm thấy trong các hang động ở huyện Đôn hoàng, tỉnh Thiểm tây, Trung quốc, trong đó có rất nhiều Ngụy kinh đã bị thất lạc từ trước. Vào đầu năm Chiêu hòa của Nhật bản, ông Thỉ xuy Khánh huy đã xem xét các bản kinh của các ông A. Stein và P. Pelliot, trong đó chọn ra được hơn 50 quyển Ngụy kinh trọng yếu, được đưa vào Đại chính tạng tập 85 (Nghi tự bộ), khoảng hậu bán thế kỉ trở đi việc nghiên cứu các Ngụy kinh mới có những bước tiến dài. Gần đây, việc nghiên cứu Ngụy kinh rất có kết quả, trước hết phải kể đến tác phẩm Nghi kinh nghiên cứu của ông Mục điền Đế lượng, trong đó, tác giả sưu tập 30 quyển nguyên bản Ngụy kinh chưa được đưa vào Đại chính tạng tập 85. Ông xem xét những mục đích nhắm tới trong các Ngụy kinh được soạn thuật rồi qui nạp vào 6 loại như sau: 1. Được soạn thuật theo ý muốn của người thống trị: Như kinh Đại bảo vân ở thời Vũ tắc thiên. 2. Nhằm phê phán chính sách thi hành của nhà thống trị: Như kinh Nhân vương bát nhã, kinh Tượng pháp quyết nghi của Tam giai giáo và kinh Du già pháp kính. 3. Để phù hợp với tư tưởng Ngũ luân truyền thống của Trung quốc: Như kinh Phụ mẫu ân trọng, kinh Vu lan bồn, kinh Tu di tứ vực, kinh Thanh tịnh pháp hành... 4. Cổ xúy giáo nghĩa tín ngưỡng đặc biệt: Như kinh Đại Phật đính thủ lăng nghiêm, kinh Đại bát niết bàn hậu phần, kinh Đại thông phương quảng, kinh Quán thế âm tam muội... 5. Nêu tên cá nhân đặc biệt hiện còn nổi bật: Như kinh Cao vương Quan thế âm, kinh Tăng già hòa thượng nhập Niết bàn thuyết lục độ, kinh Khuyến thiện... 6. Những loại kinh mê tín về chữa bệnh, cầu phúc: Như kinh Tứ thiên vương, kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo, kinh Thiên địa bát dương thần chú, kinh Phật thuyết diên thọ mệnh, kinh Phật thuyết thất thiên Phật thần phù... Trong đó, đặc biệt loại Ngụy kinh thứ 6 là nhiều nhất. Những Ngụy kinh liên quan đến Thiền tông thì có các kinh như: Kinh Pháp cú, Kinh Kim cương tam muội, kinh Thiền môn, kinh Pháp vương, kinh Viên giác... Trong đó, kinh Kim cương tam muội và kinh Viên giác là những Ngụy kinh được xem là kinh phiên dịch và được đưa vào Đại tạng. [X. Minh sa dư vận; Chiêu hòa pháp bảo tổng mục lục Q.1; chương 5, bộ 2, Phật điển tổng luận trong Phật thư giải thuyết đại từ điển (Tiểu dã Huyền diệu)].
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
na nã na na na a lại da mạn đà la na bà ma li na bà ma lợi na bà ma lợi na da na daTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)