Ấn Độ, ngày 30/11/2016, đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ với khách hành hương từ Tây Tạng khoảng 1.000 người tại tu viện Tsuglagkhang (trú xứ của đức Đạt Lai Lạt Ma), họ mặc trang phục truyền thống dân tộc với vẻ mặt tươi cười, Ngài nói với họ rằng kê từ khi họ đã đến quê hương đức Phật Ấn Độ trong chuyến hành hương, hoặc để thăm người thân, Ngài nghĩ rằng sẽ chia sẻ với họ về Phật pháp trước khi họ trở về nhà.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng: “Ánh sáng từ bi, trí tuệ Phật pháp đã lan tỏa khắp đất nước Tây Tạng, nhưng nhiều người thực sự không hiểu về lịch sử Phật giáo đã gắn liền với sự thăng trầm của đất nước và dân tộc Tây Tạng. Truyền thống của chúng ta đến từ Đại học Phật giáo Nālānda, khoảng trên 5.000 tên các tác phẩm Kinh Luận thuộc về truyền thừa Nālānda, các tác phẩm Phật giáo được lưu truyền từ truyền thống Phật giáo Nālānda Ấn Độ.
Đại học Nālānda là một trung tâm nghiên cứu học tập xuất sắc, nơi đào tạo giáo dục toàn diện, một thư viện rộng lớn có nhiều kinh điển rất giá trị và là một trong những trường Đại học lâu đời nhất trên thế giới, tồn tại từ thế kỷ thứ 5 đến năm 1197, ngày nay đã trở thành một Di sản văn hóa thế giới. Các học giả có thể phân tích và giải thích triết lý Phật giáo rộng rãi, sử dụng Logic và lý trí.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) và Hội đồng Quốc tế về di tích và di chỉ (gọi tắt là ICOMOS) tại Pari, đã khảo sát thực tế di tích lịch sử này khoảng 62 dặm từ ừ Patna thuộc bang Bihar) của Ấn Độ vào ngày 29/08/2015, để xác định vị trí để đáp ứng các điều kiện đầy đủ tiêu chí cần thiết.
Các quốc gia Phật giáo Nguyên thủy (Theravàda), Nam tông hay Phật giáo Nam truyền như Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Lào, Campuchia, họ theo truyền thống hệ Pali. Họ toàn duy trì kỷ luật Tu viện của Luật tạng. Họ dạy giáo lý Tứ đế với 16 đặc điểm của họ và 37 phẩm Trợ đạo. Tứ Diệu Đế là chân lý rốt ráo cùng tột và 3 pháp ấn là 3 chân lý không thể nào chối cãi là "Các pháp hữu vi là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" và pháp vô vi là Vô Ngã. Phật giáo Nam truyền tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát Niết Bàn.
“Sự hoàn hảo của giáo lý Phật giáo Bắc truyền đến Trung Quốc như là một phần của truyền thống Đại học Phật giáo Nālānda, vì vậy đối với Phật giáo đồ các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, Việt Nam đều đọc thuộc lòng “Bát Nhã Tâm Kinh-般若心經” và đọc tụng bộ “Trung Quán Luận-中觀論” của Bồ tát Long Thọ. Nhưng phần lớn công trình Kim Cương Thừa do ngài Tôn giả Pháp Xứng khởi xướng về Logic và truyền thống Nhận thức luận Phật giáo (Nhân minh luận Phật giáo) của ngài Trần Na (Luận sư nổi tiếng của Duy thức tông). Đây là lý do tại sao hôm nay truyền thống Đại học Phật giáo Nālānda là hoàn toàn duy trì bởi Phật giáo Tây Tạng”
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng một thời gian Lãnh đạo Trung Quốc tuyên truyền rằng người Tây Tạng chỉ có niềm tin mù quáng vào đức Phật, và nó sẽ tàn lụi khi họ đã đạt được một sự hiểu biết khoa học hơn.
Trong thực tế là các nhà Khoa học đã trở nên ngày càng quan tâm đến việc tiếp cận Phật giáo, đặc biệt là liên quan đến các hoạt động của Tâm và Cảm xúc. Ngài đã nói lên niềm hy vọng của mình trong việc phân loại các nội dung của Kangyur và Tengyur về khoa học, triết học và tôn giáo. Ngài chỉ ra rằng trung tâm tư tưởng có nhiều điểm chung với cách tiếp cận của Vật lý lượng tử và có thể được quan tâm đến bất cứ ai, trong khi các chủ đề như Tứ Diệu Đế là chủ yếu quan tâm đến Phật giáo. Hai khối lượng của khoa học từ các nguồn này gần đây đã được xuất bản bằng tiếng Tây Tạng và sẽ sớm được dịch sang tiếng Anh, Trung Quốc và các ngôn ngữ khác.
Ngài nêu lên sự phát triển vật chất tuyệt vời đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, phúc hưởng thụ vật chất tiện nghi sung túc như thế mà vẫn không hài lòng, vì họ không biết làm thế nào để tìm thấy sự an tâm. Ngài tuyên bố rằng sự hiểu biết về các hoạt động của Tâm và Cảm xúc như mô tả trong Tâm lý học Phật giáo có thể thiết thực cho đời sống hằng ngày.
Trong số 1,3 tỷ dân số Trung Quốc, 400 triệu là phật tử. Chúng chúng ta có thể phục vụ họ bằng cách làm cho các truyền thống Phật giáo của chúng ta có sẵn cho họ. Tôi tin rằng chúng ta đã giữ truyền thống của chúng ta, sống không chỉ vì lợi ích riêng của chúng ta, nhưng vì lợi ích chung cho thế giới nhân loại.
“Đức Thế Tôn đã chỉ ra những nỗi khổ đau của con người, những nguyên nhân gây ra khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và phương pháp thực hành dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Chúng ta nên biết rằng sự gây ra đau khổ đó là tâm trí hoang tưởng của chúng ta. Tâm trí của chúng ta đang bị xáo trộn và vô kỷ luật vì những cảm xúc trong khi lo ngại của chúng ta” bản chất thực sự của Tâm và Nhận thức là sự rõ ràng.
Thập nhị nhân duyên là phép tu hành của Duyên giác thừa, phép này chủ yếu quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân hồi, đều do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên hội họp thì gọi là sanh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thất vốn không có cái gì sanh, cái gì diệt cả.
Mười hai nhân duyên là một dây chuyền liên tục, chuyền từ khâu này đến khâu khác trong nhiều đời. Do có vô minh qua hành ở các đời quá khứ nên duyên khởi ra thức tâm của đời này. Thức tâm ấy, theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc, danh sắc duyên sinh ra lục thập, lục thập duyên sinh ra xúc, xúc duyên sinh ra thọ. Thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ, đều là cái quả báo dị thục của các nghiệp, đã gây ra từ trước.
Khi tâm chúng sanh chịu cái quả báo đó, thì do sự đối đãi giữa thân và cảnh lại sinh ra những điều ưa ghét, đó là ái. Rồi do có ưa ghét, mà gắn bó với thân và cảnh, chấp là thật có, không biết thân tâm và cảnh giới đều duyên khởi như huyễn, đó là thủ. Do có chấp trước, nên mọi sự vật, vốn là huyễn hóa, lại biến thành thật có, thân cũng có, cảnh cũng có, ý thức phân biệt cũng có, mình cũng có, người cũng có, rồi từ đó, sinh ra có gây nghiệp và có chịu báo.
Đã có gây nghiệp và đã có chịu báo, thì khi hết thân này, nghiệp báo sẽ dẫn dắt vào một thân khác trong vị lai, đó là sanh, mà đã có sanh thì nhất định có lão tử.
Hành giả tu theo Duyên Giác, thực hành pháp quán về mười hai nhân duyên. Lúc đầu theo chiều lưu chuyển để thấy rõ sự vận hành của guồng máy sinh tử, trong tinh thần "Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh”. Vì Vô minh sanh nên Hành mới sinh, vì Hành sinh nên có Thức sinh... tiếp tục cho đến cuối cùng là Sinh - Lão - Tử. Sau đó hành giả quán theo chiều hoàn diệt trong tinh thần "Cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt". Tuy vậy vì Vô minh là tập nhân hùng hậu, khó thể can thiệp được, nên hành giả tập trung tâm lực trừ nhân hiện tại là Ái. Do Ái diệt nên Thủ - Hữu không còn; Thủ - Hữu diệt nên Sanh - Lão tử diệt; hành giả liễu thoát sinh tử, đạt quả vị Duyên Giác là Bích Chi Phật. Nếu sinh ra đời không gặp Phật pháp, tự quán lý duyên sinh của trời đất mà ngộ, hành giả được tôn xưng là Độc Giác Phật.
Một khi quý vị thấy rằng sự thiếu hiểu biết này được khắc phục bằng cách đến hiểu thực tế, quý vị cũng sẽ thấy rằng nó là khả thi để đạt được sự chấm dứt đau khổ. Khi quý vị hiểu rằng quý vị làm như vậy sẽ nở khát vọng bằng cách nuôi dưỡng các con đường tu tập. Đây là cách thực hành giáo pháp của đức Phật.
Khơi lại lịch sử triều đại nhà Đường (618–907), Ngài nhắc lại rằng Tây Tạng là một trong ba đế quốc Phật giáo cùng với Trung Quốc và Mông Cổ. Ngài nói thêm đức Vua Songtsen Gampo (617-650) đã cử sứ giả của Thonmi Sambhota sang Ấn độ để nghiên cứu phát minh ra chữ viết cho Tây Tạng và đã mang về vô số di sản văn hóa cũng như phát kiến kỹ thuật cho Tây Tạng, duy trì quan hệ hữu nghị hòa bình với Trung Quốc và Ấn Độ, đức Vua Songtsen Gampo thành hôn với công chúa Bhrikuti Devi của Nepal và công chúa Wencheng (Văn Thành) của Trung Hoa (623-680), mỗi vị Công chúa đều mang theo bức tranh của Đức Phật Thích Ca và góp phần du nhập Đạo Phật vào Tây Tạng.
Đã có nhiều lần khi Tây Tạng chiến đấu với Trung Quốc. Tuy nhiên ngày nay Trung Quốc có thể mang lại sự phát triển kinh tế và vật chất cần thiết cho Tây Tạng, lợi ích khai thác tài nguyên khoáng sản thu được thì Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa hưởng. Chính sách xóa bỏ Tây Tạng của cầm quyền Trung Quốc được thực hiện bằng hai cách, diệt chủng văn hóa qua việc tàn phá cơ sở Tự viện Phật giáo, bôi nhọ đức Đạt Lai Lạt Ma, buộc Hoa Ngữ là ngôn ngữ chính thức.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận những khó khăn và nguy hiểm cho những người hành hương phải đối mặt khi đến gặp Ngài. Và khi Ngài ca ngợi sự quyết tâm và tinh thần dũng cảm của người Tây Tạng, nhiều người lặng lẽ lau nước mắt. Ngài nói với họ rằng với ngôn ngữ độc đáo, và bảo tồn giá trị các nền văn hóa giáo dục phong phú của đại học Phật giáo Nalanda Tây Tạng có nhiều điều để tự hào, Ngài cam đoan với họ rằng đây là những gì Ngài nói với những người khác trên thế giới.
Kết thúc buổi chia sẻ Pháp thoại, đức Đạt Lai Lạt Ma thực hiện Nghi quỹ tu trì Bản tôn Trí tuệ Văn Thù Sư Lợi, và khuyên nhủ các phật tử rằng: “Tu trì chân ngôn Trí Tuệ Văn Thù có thể tăng trưởng phúc đức, trí tuệ, có khả năng ghi nhớ và đạt được biện tài vô ngại. Kim khẩu có thể diễn thuyết được tám vạn diệu pháp, thấu rõ được thâm nghĩa của tất cả các pháp, tiêu trừ được tất cả ngu si ám chướng và tất cả các ác nghiệp về khẩu.
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật. Đức Phật có ba khía cạnh, trong đó Đức Quan Âm là Bản tôn hiện thân của khía cạnh từ bi, Đức Văn Thù là Bản tôn hiện thân của khía cạnh trí tuệ, và Đức Kim Cương Thủ là hiện thân của khía cạnh dũng lực. Việc thực hành cả ba Bản Tôn trên là rất cần thiết và quan trọng. Trong đó khía cạnh về trí tuệ là khía cạnh đặc biệt quan trọng, không những cho sự giác ngộ rốt ráo mà còn thiết thực cho đời sống hiện tại của chúng ta.
Đức Văn Thù là một bậc Cổ Phật danh hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, mật hiệu là Bát Nhã Kim Cương, Ngài là bậc đệ nhất trí tuệ trong tất cả chư Bồ Tát. Đức Văn Thù thị hiện rất nhiều pháp tướng khác nhau. Trong Kim Cương thừa, Ngài hiện pháp tướng Kalachakra, còn trong Đại thừa, Ngài hiện pháp tướng Bồ Tát Văn Thù như thông thường chúng ta vẫn biết. Đức Văn Thù còn hiện thân dưới thân tướng các bậc Thầy, như Bồ tát Long Thọ là bậc Thầy Phật giáo vĩ đại nhất ở Ấn Độ. Như vậy, Ngài có thể thị hiện dưới rất nhiều pháp tướng khác nhau để lợi ích chúng sinh!
Pháp tu Trí Tuệ Văn Thù dành cho tất cả mọi người. Nhiều hành giả đã đạt giác ngộ nhờ pháp tu này từ hàng ngàn năm nay kể thời Đức Phật Thích Ca. Phần quán tưởng và trì tụng là quan trọng nhất, và nếu thực hành, chúng ta sẽ có được sự tỉnh thức, trí tuệ để ý thức được những gì mình làm – không chỉ ý thức được những nghiệp bất thiện mà cả thiện hạnh. Nhờ có trí tuệ, chúng ta sẽ tích cực thực hành nhiều thiện hạnh, giảm bớt những ác hạnh và cuộc sống sẽ trở nên hạnh phúc tốt lành hơn. . . ".
Vân Tuyền (Nguồn: Ein News)