Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU

“An nam tứ đại thần khí” và những câu chuyện nhiệm màu Phật giáo

“An Nam tứ đại khí” hay “Nam thiên tứ bảo khí” là sự tích kể về bốn bảo vật bằng đồng được đúc dưới thời Lý – Trần - khi mà Phật giáo lúc này đại thịnh.

 Bốn thần khí vang danh đến tận Trung Quốc khiến xứ bắc thèm muốn, cũng là niềm tự hào của Việt Nam. Cả bốn thần khí nghe tiếng oai hùng nhưng đều an yên mà nằm tại chùa mặc cho bên ngoài sóng gió. Và xung quanh bốn thần khí đó cũng có rất nhiều sự tích nhiệm màu.

Tứ đại khí bao gồm:

-        Tượng Phật Di Dặc tại Chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều, Quảng Ninh

-        Tháp Báo Thiên, Thăng Long (Hà Nội)

-        Chuông Quy Điền tại Chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột – Hà Nội)

-        Vạc Phổ Minh tại Chùa Phổ Minh, Thiên Trường, Nam Định

Hiện nay, cả bốn thần khí đều đã thất lạc, minh chứng cho sự tham lam trong chiến tranh. Xoay quanh đó là những truyền thuyết huyền bí về sự ra đời và biến mất của chúng.

“An Nam tứ đại khí” có nghĩa là bốn kỳ quan, bốn quốc bảo, là bốn công trình nghệ thuật, kiến trúc và điêu khắc của Đại Việt thời bấy giờ. Có một sự tích dân gian kể rằng, cả bốn đại thần khí mang tinh anh của người Việt là do hai vị thánh tăng Đại Việt là Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh có công đúc thành. Tuy nhiên xét về thời gian sự ra đời của từng báu vật là chưa hợp lý.

Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm

Truyền rằng chùa Quỳnh Lầm đã từng có hai pho tượng lớn. Do thiền sư Nguyễn Minh Không tới Trung Quốc mang túi lớn thâu đồng đen về mà đúc thành. Một pho được đúc vào thời Lý do thiền sư Nguyễn Minh Không phụ trách và một pho khác được đúc vào thời Trần cho thiền sư Pháp Loa phụ trách. Theo một số tài liệu thì pho tượng đầu tiên thời Lý có chiều cao xấp xỉ 6 trượng (tức gần 20m) là tượng đồng cổ lớn nhất Việt nam, pho tượng lớn đến nỗi người ta phải cho xây tòa điện cao 7 trượng để đặt tượng. Vì lẽ pho tượng lớn vậy mà dân gian còn nhắc rằng, đứng ở phía nam huyện Đông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm chừng 10 dặm vẫn có thể nhìn thấy nóc điện che sát đầu bức tượng. Đủ thấy sự vĩ đại của tượng Phật Thế nào. Có bài ca rằng:

Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi sứ đông

Tháp cao chín đợt màu mây ám

Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng

Trước điện thông reo cùng trúc hóa

Trong am khánh đá với chuông đồng

Pho tượng thứ 2 đúc dưới thời nhà Trần bởi thiền sư Pháp Loa, thiền phái Trúc Lâm. Năm 1327, tượng được đúc xong , năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã lạy vua xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. Lúc ấy, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã công đức cho chùa 900 lượng vàng để dát tượng.

Đây là 2 pho tượng rất hùng vĩ trong giai đoạnh cực thịnh của Phật giáo Việt nam và cũng được xem như niềm tự hào của kiến trúc Đại Việt. Đáng tiếc cả 2 bức tượng đều đã bị quân Minh trong quá trình kéo quân sang xâm chiếm phá bỏ để lấy đồng đúc vũ khí vào thế kỷ 15.

Tháp Báo Thiên

Tháp Báo Thiên có tên đầy đủ là Đại thắng tư thiên bảo tháp, được xây dựng vào năm Đinh Dậu 1057, dưới thời Lý Thánh Tông. Tháp cao 70m, có 30 tầng (một số tài liệu khác lại chép 12 tầng). Tháp nằm trong viên tự chùa Sùng Khánh phường Báo Thiên, nay thuộc Hoàn Kiếm Hà Nội.

Tháp được liệt vào Tứ đại khí bới số tầng chẵn (12 hoặc 30) biểu hiện sự cân bằng, ổn định (như triều đình nhà Lý, ngụ ý cho sự trường tồn thịnh vượng). Tháp Báo Thiên được đúc bằng đồng có khắc ba chữ Đao Ly Thiên, tỏ ý rằng ý tưởng của đấng tối cao dâng lên hay xông lên trời thẳm. Trên đỉnh tháp còn có bức tượng tiên nhân đứng hứng mưa làm thuốc cho vua. Vì thế có bài ca của các bậc nho sĩ thuật rằng:

Trấn áp đông tây vững đế kỳ

Khuynh  thiên nhất tháp độc nguy nguy

Sơn hà bất động kình thiên trụ

Kim cổ nan nan lập địa chủng

Tức:

Trấn giữ đông tây vững đế kỳ

Tháp cao sừng sững thật uy nghi

Làm cột trống trời yên đất nước

Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì.

Tuy nhiên, so với những pháp khí còn lại cũng bị thất lạc thì Tháp Báo Thiên có phần thăng trầm hơn. Năm 1258 đời Trần Thánh Tông, tháp đã bị cháy. Được trùng tu nhưng không lâu sau tháp lại bị sét đánh sạt mất 2 tầng năm Nhân Tuất 1322. Đến năm Bính Tuất 1406 tháp lại bị đổ. Cuối cùng khi quân Minh xâm lược, chúng lại cho quân phá tháp nấu đồng đúc khí giới.

Chuông Quy Điền

Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng 2 năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ). Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa.

Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế tạo súng đạn, hỏa khí.

Vạc Phổ Minh

Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.

Vạc sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân.[1] Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Hiện nay tại chùa Phổ Minh chỉ còn lại bệ đá kê vạc khi xưa.

Vậy là trải qua thăng trầm của lịch sử, tứ đại khí gắn với bốn ngôi chùa danh tiếng đều chung số phận bị thất lạc và phá hủy. Tuy nhiên chúng vẫn hiện hữu trong các sự tích hiện thời, nhắc nhở con cháu Đại Việt về một thời cực thịnh của Phật giáo và những giá trị tự hào dân tộc mà chúng mang lại.

(Bài viết có sử dụng một số tư liệu trên internet)

Duy Anh

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Chung quanh vấn đề vãng sanh

Nghiên cứu 20:00 21/11/2024

Tất cả chúng sanh, nếu không được sanh về cõi Phật, tất nhiên sẽ phải đọa vào ác đạo, không trước thời sau. Nếu muốn sanh về cõi Phật, đương nhiên là phải niệm Phật. Đó là một sự thật tất nhiên không thể phủ nhận.

Luận bàn hai chữ “Cuộc đời” trong bài kệ của Thiền sư Pháp Loa

Nghiên cứu 13:32 21/11/2024

“Cuộc đời của mỗi con người chỉ như một giấc chiêm bao – vô thường. Nếu không có hiểu biết, không tìm thấy cái ta chân thật, thì dù làm bao nhiêu việc cũng chỉ là làm mộng, bao nhiêu cái biết, cũng chỉ là cái biết hư vọng”.

Mối quan hệ giữa đời sống và việc tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông

Nghiên cứu 14:05 20/11/2024

Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn nhấn mạnh quan niệm tiến bộ của Phật giáo Đại Việt rằng “Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách li, phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân l‎ý.

Tiếc là con người chỉ có hai tay

Nghiên cứu 08:20 19/11/2024

Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái đến tuổi gả chồng, có hai gia đình Đông gia và Tây gia cùng đến cầu thân.

Xem thêm