Chánh niệm và hành thiền
Khi Chánh niệm được thiết lập, Chánh định (samādhi ñāṇa) sinh khởi. Nhằm giúp các Phật tử nhớ cách thức hành thiền sao cho Chánh Niệm và Chánh Kiến sinh khởi, Sư (Ngài Mahāsī) sẽ chỉ ra công thức hành thiền. Để phát triển Chánh Niệm và có được tuệ Minh Sát, thiền sinh cần nhớ nằm lòng những điều sau:
Nhận biết đúng đắn mọi hoạt động nơi thân khi nó sinh khởi
Nhận biết đúng đắn mọi hoạt động nơi tâm khi nó sinh khởi
Nhận biết đúng đắn mọi cảm thọ: dễ chịu, khó chịu và bình thường (không khó chịu cũng không dễ chịu) khi nó sinh khởi.
Hay biết mọi hiện tượng sinh khởi qua tuệ Minh Sát
Sư đã giải thích cặn kẽ những điều này trong bài giảng kinh Chuyển Pháp Luân, vậy thiền sinh có thể tham khảo thêm nếu muốn.
Trong thiền định, khi chú tâm quan sát một đối tượng duy nhất, Chánh Niệm đồng sinh khởi với Chánh Định. Nói về thiền Định, Đức Phật giảng về bốn tầng thiền (jhāna), là những mức độ định tâm cao. Mức độ định tâm yếu nhất được gọi là cận định (upacāra samādhi). Gọi là cận định (upacāra samādhi) vì nó cận kề trạng thái nhập định (appanā samādhi), tức sự chứng đắc tầng thiền. Đạt đến cận định là người này thành tựu việc thanh lọc tâm (cittavisuddhi).
Trong thiền Minh Sát, thiền sinh có thể phát triển chặp định (vipassanākhaṇika samādhi), tức là phát triển định tâm trong từng sát na. Chặp định trong thiền Minh Sát được xem là tương đương với cận định trong thiền Định vì cũng như cận định, nó có khả năng loại trừ những chướng ngại trong tâm như: dã dượi, buồn ngủ, tâm vọng động… vốn cản trở sự sinh khởi của những tâm thiện lành và Niết Bàn. Trong các Chú giải, chặp định được mô tả như cận định vậy.

Khi tuệ Minh Sát lớn mạnh, Chánh Tư Duy sẽ hướng tâm đến đặc tính thuộc chân đế của đối tượng mà tâm đang quan sát, để rồi người này sẽ có được Chánh Kiến. Điều này xảy ra như sau: Khi bắt đầu có chánh niệm, và rồi có được tâm trong sạch (cittavisuddhi), thiền sinh có thể phân biệt được tâm quan sát và đối tượng mà tâm đang quan sát.
Chẳng hạn khi quan sát phồng xẹp, người này có thể phân biệt hiện tượng phồng xẹp tách rời, riêng biệt với tâm quan sát hay biết phồng xẹp. Khi đi kinh hành, nguời này để ý thấy việc dở chân lên, đưa chân tới trước, đặt chân xuống là khác với tác ý tạo ra những chuyển động này. Thấy vậy là thiền sinh phân biệt được tâm và vật chất. Điều này tự động xảy ra chứ không phải do phán đoán hay tưởng tượng. Thiền sinh nhận ra hiện tượng tâm và vật chất mà không suy tưởng gì cả. Nói cách khác, sự hiểu biết này xảy ra một cách tự nhiên.
Khi định tâm trở nên mạnh mẽ và trí tuệ trở nên sắc bén, thiền sinh nhận ra rằng: đầu gối duỗi ra là vì có ý muốn duỗi và thiền sinh đi vì có ý muốn đi. Thiền sinh nhận ra rằng: tiến trình thấy xảy ra vì có mắt và đối tượng để thấy, tiến trình nghe xảy ra vì có tai và âm thanh để nghe. Người này nhận ra mình có cuộc sống này là do nghiệp tốt đã tạo. Bằng cách này, thiền sinh phân biệt được nhân và quả trong mọi hiện tượng sinh khởi.
Khi định tâm và trí tuệ trở nên mạnh mẽ hơn, thiền sinh nhận ra rằng tâm hay biết và đối tượng được hay biết sinh ra trong sát na này và biến mất trong sát na sau. Rồi cái mới lại sinh ra và biến mất. Khi thấy chuỗi sinh diệt tiếp nối liên tục như thế, thiền sinh nhận ra rằng: Tất cả các hiện tượng sinh khởi đều có bản chất vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Trí tuệ hiểu biết này sinh khởi từ kinh nghiệm hành thiền, không phải do tưởng tượng hay suy đoán.
Thiền sinh biết rõ những điều này mà không cố ý hướng tâm tìm kiếm bản chất vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Ghi nhận đối tượng vào lúc chúng sinh khởi, người này thấy bản chất thật sự của chúng. Vì tâm và vật chất có đặc tính khác nhau, người này thấy chúng không giống nhau, chúng chẳng phải là một. Và rồi người này hiểu mối liên hệ nhân và quả khi quan sát các đối tượng sinh khởi. Quan sát và thấy được bản chất thật sự của các đối tượng sinh khởi, thiền sinh nhận ra đặc tính vô thường, bất toại nguyện và vô ngã nơi đối tượng. Hiểu vậy là thiền sinh có được Chánh Kiến.
Thiền sinh cần quan sát và ghi nhận mọi đối tượng sinh khởi ở sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm). Để làm điều này, thiền sinh cần sự cố gắng: Chánh Tinh Tấn. Giữ tâm trên đối tượng và theo dõi, hay biết đối tượng này là hoạt động của Chánh Niệm. Vì có Chánh Niệm, tâm bám chặt vào đối tượng, cho nên Chánh Định có mặt. Vậy ba yếu tố: Chánh Tinh Tấn Chánh Niệm và Chánh Định thuộc nhóm Định đều có mặt trong khi hành thiền.
Hướng tâm quan sát bản chất tự nhiên của đối tượng là Chánh Tư Duy. Nhờ có Chánh Tư Duy mà Chánh Kiến sinh khởi. Hai yếu tố này thuộc nhóm Tuệ. Và rồi năm yếu tố thuộc nhóm Định và Tuệ này được gọi là năm người thợ (karaka maggaṅga) cùng ra sức làm việc trong tiến trình ghi nhận và hiểu biết đối tượng đang sinh khởi.
Như đã nói ở trên, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng thuộc nhóm Giới được cho là thành tựu khi thiền sinh bắt đầu hành thiền Minh Sát. Trong khi hành thiền, ba yếu tố này được xem là trong sạch, không lấm dơ. Trong quá trình hành thiền, ba yếu tố này càng lúc càng trở nên trong sạch. Khi ba yếu tố này kết hợp với năm yếu tố của nhóm Định và Tuệ vào lúc thiền sinh hành thiền Minh Sát, thì tám yếu tố trong Bát Chánh Đạo đều phát sinh.
Và trong tiến trình hành thiền Minh Sát, Sơ đạo (tức Bát Chánh Đạo ở giai đoạn sơ khởi mūla magga) vốn là nền tảng cho sự phát triển Thánh đạo về sau cần được phát triển. Trong tám yếu tố của Sơ đạo, chúng ta cần có Chánh Kiến tin vào nhân quả rằng: Tôi là người thừa hưởng nghiệp mà tôi đã tạo (kammassakatā sammādiṭṭhi). Chỉ khi vững tin vào nhân quả, thiền sinh mới ra sức hành thiền.
Chúng ta nên tin rằng thiền Minh Sát sẽ đưa ta đến Thánh đạo, Thánh quả và Niết Bàn. Chỉ khi tin như thế, chúng ta mới dốc sức hành thiền, phát triển Chánh Tinh Tấn. Gìn giữ giới đức luôn trong sạch là yếu tố quan trọng thứ nhì trong Sơ đạo. Yếu tố quan trọng thứ ba trong Sơ đạo là chặp định, vốn có sức mạnh tương đương với cận định trong thiền Định, như đã nói ở phần trên. Thành tựu các yếu tố này trong Sơ đạo là thiền sinh đang đi trên con đường Minh Sát chân chánh. Con đường Minh Sát mà Sư (ngài Mahasi) đã nói ở phần trước là Trung đạo (pubbabhāga magga), giai đoạn chuẩn bị cho việc thành tựu Thánh đạo.
Trích Kinh Nghiệm Niết Bàn Qua Bát Chánh Đạo,
Đại Trưởng lão Thiền sư Mahāsī,
Việt dịch: Sư cô Diệu Pháp.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
"Bố thí giúp nghiệp nhẹ" có đúng không?
Phật giáo thường thứcQuả thực, trong truyền thống Phật giáo, việc bố thí (dāna) được xem là một nghiệp (kamma) thiện lành mạnh, có khả năng làm "nhẹ nghiệp" hoặc chuyển hóa nghiệp theo hướng tích cực. Sự giảng giải này dựa trên giáo lý căn bản về Nghiệp (Kamma) và Quả (Vipāka).
Do đâu mơ thấy ác mộng, dị tượng?
Phật giáo thường thứcChào Ban biên tập, tôi ngủ hay mơ thấy điều xấu, dị tượng, quái gỡ, khiến mình không an. Có cách nào giúp tôi vượt qua không? Phải chăng đời trước tôi đã tạo nhiều nghiệp ác nên nay mơ thấy để trả nghiệp trong mơ, thọ nhận quả trong tâm thức? (Minh Hằng, Cà Mau)
Quả lành đã trổ là được giàu có, sao tập khí lành không có?
Phật giáo thường thứcHỏi: Kính thưa Thầy, con thấy đời nay có nhiều người giàu có, nhưng keo kiệt bỏn xẻn, không bố thí cho người người, không đi chùa, không cúng dường. Như vậy quả có lẽ đời trước họ hay cúng dường bố thí nên quả lành đã trổ là được giàu có, sao tập khí lành không có?
Văn và tư là nền móng cần thiết cho sự hình thành nội lực
Phật giáo thường thứcCó những giai đoạn, người học Phật buộc phải dừng lại khá lâu ở văn và tư không phải vì chấp chữ nghĩa, mà vì nội lực và phước duyên chưa đủ để chuyển hóa sâu.
Xem thêm














