Tu tập thiền định
Thiền định là khoa học tâm thức đã được nhân loại biết đến trước thời Buddha Gotama.
Khả năng kỳ diệu của thiền định không chỉ giúp các nhà tâm linh, tôn giáo khám phá bí ẩn nội tâm, mà còn giúp nhân loại tìm thấy sự an bình, tĩnh lặng và hài hoà cảm xúc trong đời sống.
Tâm lý học và Y học hiện đại đều có ghi nhận những kết quả cụ thể do thiền mang lại. Hạnh phúc nội tại trong đời sống thông qua tu tập thiền định là điều có thể. Thậm chí, nếu đủ niềm tin và sự tinh tấn, từ cánh cửa thiền có thể đi vào hiểu biết không giới và hạnh phúc siêu việt những cảm thụ giác quan.

1. Hiểu thiền định
Khi thấy một người ngồi yên trong tư thế hoa sen, mắt nhắm lại, phần lớn hiểu là người ấy đang ngồi thiền. Thiền trong hiểu biết của người biết thiền là một nội tâm an định trong một hình thức an tĩnh. Thiền hiểu đúng và đủ là thiền định. Nếu nội tâm an định và hình thức an tĩnh không cùng có mặt, thiền định không có. Ngồi yên lặng để suy tư không phải là ngồi thiền định. Chú ý đến những hoạt động sống để cân bằng sinh lý và làm chủ cảm xúc không phải là thiền định. Thiền định thật sự phải là một trong bốn trạng thái định tĩnh bên trong như Buddha Gotama trải nghiệm.
Chánh niệm tỉnh giác là một kỷ thuật thiền được áp dụng để tâm đi vào thiền định. Minh sát như nó là (Vipasana) là một kỷ thuật thiền được áp dụng để am hiểu bản chất của con người sinh lý và tâm thức. Từ chánh niệm tỉnh giác hơi thở có thể đi đến vắng lặng tâm trí. Từ vắng lặng tâm trí có thể đi đến an tịnh cảm xúc. Từ an tịnh cảm xúc có thể đi đến bốn trạng thái thiền định. Từ bốn trạng thái thiền định có thể đi đến thấu hiểu bản chất sinh lý và tâm thức. Từ thấu hiểu bản chất sinh lý và tâm thức có thể đi đến các mức độ tự do. Giác ngộ được đo bằng mức độ tự do. Có bốn mức độ tự do gọi là Bốn thánh quả. Người giác ngộ phải là người có một trong Bốn thánh quả.
Thiền định chính là chìa khoá mở cánh cửa Thánh quả, chạm đến cuối cùng tự do.
2. Tu tập thiền định
Một lần Tỳ-kheo-ni Dhammadinna được nam cư sĩ Visakha hỏi như thế nào là định, như thế nào là định tướng, như thế nào là định tư cụ và thế nào là định tu tập. Tỳ-kheo-ni Dhammadinna trả lời:
“Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây”.[1]
Tu tập thiền định sự thật là luyện tập, là tiếp tục luyện tập cho tâm chuyên nhất, định tĩnh (nội tĩnh nhất tâm) qua hơi thở, nơi thân hành, trong cảm xúc, nơi tâm tư và trên những sự thật sống (Bốn niệm xứ) với quyết tâm ly dục và ly bất thiện mạnh mẽ bên trong (Bốn tinh cần).
a. Tu tập thiền định qua hơi thở và trên thân hành
Nhất tâm là định. Khi tâm chuyên nhất, mát dịu, tươi tĩnh, không có sự trói buộc của tham dục, sân hận, hôn trầm, bất an và hoài nghi, định bắt đầu có mặt. Có thể ngồi yên, tĩnh lặng quan sát hơi thở ra vào để vào định. Cũng có thể ghi nhận mọi trạng thái đang là của thân thể (thân hành) trong khách quan để đi vào định. Đức Phật Gotama có hướng dẫn:
“Này các Tỳ-kheo, ở đây Tỳ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi yên, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết thở vô dài. Hay thở ra dài, vị ấy biết thở ra dài. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết thở vô ngắn. Hay thở ra ngắn, vị ấy biết thở ra ngắn. Cảm giác thân hành, tôi thở vô, vị ấy tập. Cảm giác thân hành, tôi thở ra, vị ấy tập. An tịnh thân hành, tôi thở vô, vị ấy tập. An tịnh thân hành, tôi thở ra, vị ấy tập.”[2]
Cụ thể hơn, để định hay nhất tâm, cần phải có một không gian yên tĩnh. Ngồi yên, lưng thẳng, an trú thân và tâm trong giây phút hiện tại, ý thức hơi thở ra và vào một cách tự nhiên. Hơi thở ra, ghi nhận ra; hơi thở vào, ghi nhận vào. Ghi nhận và biết rõ. Không phán xét mà cũng không điều khiển. Chỉ có thở và biết rõ hơi thở trong thư giản và yên lặng. Ngồi yên luyện tập và tiếp tục luyện tập ghi nhận, biết rõ hơi thở ra vô, với tâm kiên nhẫn, tâm sẽ định tĩnh, chuyên nhất theo thời gian.
Trường hợp thấy khó trong việc thở, ghi nhận và biết rõ hơi thở, đơn giản hơn chỉ cần cảm nhận cảm giác của thân thể trong hiện tại. Có cảm giác gì trên thân, an tịnh, mát dịu, đau hay nóng, chỉ cần cảm nhận. Cảm nhận, không thêm một ý nghĩ hay hành động gì khác. Cảm nhận thật rõ ràng và đơn thuần. Tâm định tĩnh và chuyên nhất sẽ tuỳ thuộc mức độ rõ ràng và đơn thuần của cảm nhận.
b. Tu tập thiền định trong cảm xúc và nơi tâm tư
Cảm xúc là con người thật đang là. Tâm tư là phẩm chất sống đang là. Ghi nhận và biết rõ cảm xúc là ghi nhận và biết rõ con người thật mình có. Ghi nhận và biết rõ tâm tư là ghi nhận và biết rõ phẩm chất sống mình có. Ngồi yên ghi nhận và biết rõ cảm xúc và tâm tư là tu tập thiền định. Tâm tập trung ghi nhận và biết rõ cảm xúc và tâm tư, không có phán xét và phản ứng chủ quan, là tâm định. Ngoài ra, với tâm không phán xét và phản ứng chủ quan khi ghi nhận và biết rõ cảm xúc và tâm tư, một hiểu biết như thật bản chất hiện hữu còn có thể hiển lộ, giúp người ghi nhận và biết rõ chạm đến cuối cùng tự do. Đức Phật Gotama có hướng dẫn:
“Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác (cảm xúc) lạc thọ, biết rõ có cảm giác lạc thọ; khi cảm giác khổ thọ, biết rõ có cảm giác khổ thọ; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rõ có cảm giác bất khổ bất lạc thọ.”[3]
“Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, biết rõ tâm có tham; hay với tâm không có tham, biết rõ tâm không có tham. Hay với tâm có sân, biết rõ tâm có sân; hay với tâm không có sân, biết rõ tâm không có sân. Hay với tâm có si, biết rõ tâm có si; hay với tâm không có si, biết rõ tâm không có si. Hay với tâm thâu nhiếp, biết rõ tâm được thâu nhiếp. Hay với tâm tán loạn, biết rõ tâm bị tán loạn. Hay với tâm quảng đại, biết rõ tâm được quảng đại; hay với tâm không quảng đại, biết rõ tâm không được quảng đại. Hay với tâm hữu hạn, biết rõ tâm hữu hạn. Hay với tâm vô thượng, biết rõ tâm vô thượng. Hay với tâm có định, biết rõ tâm có định; hay với tâm không định, biết rõ tâm không định. Hay với tâm giải thoát, biết rõ tâm có giải thoát; hay với tâm không giải thoát, biết rõ tâm không giải thoát".[4]
Tu tập thiền định trong cảm xúc và nơi tâm tư là luyện tập, tiếp tục luyện tập một cách kiên nhẫn, ghi nhận và biết rõ cảm xúc cũng như tâm tư có mặt trong mình. Cảm xúc gì hay tâm tư nào có mặt đều biết rõ. Chỉ biết rõ, không suy nghĩ, không tham dự. Tất cả cảm xúc hay tâm tư đến đi, dù thuộc loại nào, không tham giữ mà cũng không chán bỏ. Cho phép cảm xúc và tâm tư cứ như là nó. Chỉ cần kiên nhẫn ghi nhận và biết rõ. Có thể gọi tên cảm xúc và tâm tư trong im lặng. Có thể ngồi yên trong tư thế hoa sen, ý thức hơi thở tự nhiên, ghi nhận và biết rõ. Cũng có thể đi bộ, ngồi ghế có dựa và nằm buông thư trong hơi thở tự nhiên, ghi nhận và biết rõ cảm xúc và tâm tư. Càng ghi nhận và biết rõ cảm xúc và tâm tư, người ghi nhận và biết rõ càng hiểu sâu về chính mình và bản chất nhân duyên, vô thường và không ngã tính của hiện hữu. Tâm an định và tri kiến giải thoát sẽ từ sự thấu hiểu chính mình và bản chất nhân duyên, vô thường, không ngã tính của hiện hữu lớn lên.
c. Tu tập thiền định trên những sự thật sống
Có ba sự thật như thật là vô thường, bất toại nguyện và không ngã tính trong đời sống. Ba sự thật sống này, nếu được liễu tri, phiền não sẽ kết thúc. Đức Phật Gotama đã chia sẻ ba sự thật sống này cho năm huynh đệ đồng tu tại Lộc Uyển. Ngài hướng dẫn các huynh đệ thiền định về ba sự thật này trên xác thân và tâm thức (Năm uẩn) của mỗi người để tự mình chứng ngộ thắng trí và giải thoát. Sau năm ngày thiền tập, tiếp tục thiền tập và kiên quyết thiền tập, năm huynh đệ đồng tu đã thành tựu tâm và tuệ giải thoát. Phiền não hoàn toàn được đoạn tận. Nội dung hướng dẫn thiền tập về vô thường, bất toại nguyện và không ngã tính được Đức Phật chia sẻ như sau:
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Sắc (xác thân vật chất) là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc (theo ý muốn hay không theo ý muốn)?
- Là khổ (không theo ý muốn), bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Thọ (cảm xúc) là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc (theo ý muốn hay không theo ý muốn)?
- Là khổ (không theo ý muốn), bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Tưởng (suy nghĩ và ký ức) là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc (theo ý muốn hay không theo ý muốn)?
- Là khổ (không theo ý muốn), bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Hành (tâm tư) là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc (theo ý muốn hay không theo ý muốn)?
- Là khổ (không theo ý muốn), bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Thức (nhận thức) là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc (theo ý muốn hay không theo ý muốn)?
- Là khổ (không theo ý muốn), bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Do vậy, này các Tỳ-kheo, phàm sắc gì, thọ gì, tưởng gì, hành gì hay thức gì ở quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật định tĩnh nhìn rõ với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi.”
Thấy vậy, này các Tỳ-kheo, bực Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát." Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."
Để thiền định về ba sự thật vô thường, bất toại nguyện và không có ngã tính như Đức Phật hướng dẫn có hiệu quả, đầu tiên cần có tâm định tĩnh và chuyên nhất, đặc biệt là cần có kinh nghiệm thiền định về cảm xúc và tâm tư. Ngoài ra người thiền tập cũng cần có thêm ý thức biết đủ, lòng từ bi và tính kỷ luật.
Đầu tiên, ngồi thật yên, nhìn rõ sắc, thọ, tưởng, hành và thức như chính nó trên thân và trong tâm. Tiếp theo, suy xét tính vô thường, không toại nguyện và vô ngã tính của sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nhìn rõ và suy xét. Tiếp tục nhìn rõ và suy xét. Đầy kỷ luật và kiên trì. Nhìn rõ cho đến khi sắc, thọ, tưởng, hành và thức không còn lầm lẫn. Suy xét cho đến khi sắc, thọ, tưởng, hành và thức sáng lên trong ánh sáng vô thường, bất toại nguyện và vô ngã tính. Một tâm thái thênh thang, tự do sẽ sinh khởi khi sự thật vô thường, bất toại nguyện và vô ngã tính được nhìn thấy qua sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Kinh nghiệm thênh thang và tự do khi thấy sự thật cũng sẽ cho người kinh nghiệm thấy không có ai trong thêng thang và tự do đó. Đặc biệt là một tâm sáng chói không có ngã cho biết chính mình thêng thang và tự do.
Trường hợp cần từng bước nhìn thấy vô thường, bất toại nguyện và vô ngã tính trong sắc, thọ, tưởng, hành và thức (năm uẩn), có thể tuệ quán theo bảy bước sau:
(1) Ngồi yên, gọi tên chính xác từng uẩn, khái niệm rõ từng uẩn. Sắc uẩn là cái gì, thọ uẩn là cái gì, tưởng uẩn là cái gì, hành uẩn là cái gì, thức uẩn là cái gì, cần được nhận thức càng chi tiết càng tốt.
(2) Nhắm mắt lại, thở trong an tịnh thân hành và tâm hành, sau đó cảm nhận từng uẩn một trên chính thân xác và tâm mình.
(3) Tách bạch từng uẩn để nhìn rõ. Phân tích sự tập khởi, sự có mặt, sự biến diệt của từng uẩn. Suy tư và tự nghiệm để thấy vị ngọt, sự hiểm nguy và sự xuất ly của từng uẩn.
(4) Tổng hợp năm uẩn như một dòng sinh mệnh để nhìn rõ. Tuệ tri tính duyên sinh của năm uẩn. Sự có mặt của một uẩn là có mặt của năm uẩn và ngược lại. Dòng sinh mệnh sẽ kết thúc khi một trong hoặc cả năm uẩn kết thúc.
(5) Nhìn vô thường qua năm uẩn. Thể nghiệm tính bất toại nguyện khách quan và không thể chấp thủ của năm uẩn.
(6) Nhìn vô ngã tính của năm uẩn. Thể nghiệm bản chất sinh động, vắng lặng, không có cái tôi và cái của tôi của năm uẩn.
(7) Thể nhập vô tướng và biến mất tôi là trong thực tại không diệt không sanh.
3. Yếu tố quyết định thành tựu
Có bốn yếu tố quyết định thành tựu mà Đức Phật gọi là Tứ chánh cần, hay Tỳ-kheo-ni Dhammadinna gọi là định tư cụ: (1) Quyết tâm không tạo duyên, không tham dự vào những gì có thể làm bất thiện chưa sinh phát sinh; (2) Quyết tâm ly dục và đoạn tận bất thiện đã sinh, làm cho bất thiện đã sinh không còn cơ hội sinh lại; (3) Quyết tâm kết nối, trợ duyên cho những gì có thể làm cho thiện chưa sinh được sinh khởi; (4) Quyết tâm tinh cần làm cho những gì thiện đẹp đã sanh được lớn mạnh thêm lên. Bốn yếu tố quyết định thành tựu này sẽ phát triển mạnh khi nhận thức giác ngộ có mặt và mục đích thiền tập rõ ràng.
Chu-lợi Bàn-đặc (Cūlapanthaka), một học trò rất khó khăn trong việc hiểu và nhớ lời Đức Phật để thiền tập. Thậm chí một câu Phật ngữ cũng rất khó hiểu và ghi nhớ. Nhiều lúc Chu-lợi Bàn-đặc tự mình rất chán nản. Nhưng khi được Đức Phật hướng dẫn thiền tập theo Tứ chánh cần, Chu-lợi Bàn-đặc đã thành tựu định tuệ và tri kiến giải thoát. Đức Phật hướng dẫn rất đơn giản. Chu-lợi Bàn-đặc chỉ cần nhìn vào tâm và xem trong ấy có gì. Thiện thì nuôi dưỡng; cái gì làm cho mình và người tốt đẹp thì nuôi dưỡng. Bất thiện thì bỏ đi; cái gì làm cho mình và người khổ đau thì bỏ đi. Ngày và đêm chỉ cần nhìn tâm mình, nuôi dưỡng thiện, tăng trưởng thiện. Đêm và ngày chỉ cần nhìn tâm mình, từ bỏ ác, chấm dứt ác. Chu-lợi Bàn-đặc thiền tập đơn giản như thế ngày và đêm trong tất cả oai nghi sống. Kết quả, Chu-lợi Bàn-đặc thành tựu chánh tri kiến, tâm và tuệ giải thoát, có đầy đủ Thiên nhãn và Tam minh.[5] Sự thành tựu của Chu-lợi Bàn-đặc qua tu tập Tứ chánh cần được Đức Phật rất nhiều lần khen ngợi:
Với thân, tâm an trú,
Đứng, ngồi hay nằm xuống,
Tỳ khưu an trú niệm,
Trước sau được thù thắng,
Vượt tầm mắt ác ma.[6]
Tứ chánh cần là công cụ tư duy đưa đến nhất tâm và định tĩnh. Bản chất của Tứ chánh cần là quyết tâm dẫn tâm vào đạo và dẫn đạo vào tâm. Một hình thức khác của Tứ chánh cần được Đức Phật chia sẻ là Như lý tác ý. Như lý là phù hợp chân lý, phù hợp sự thật. Tác ý là nghĩ tới, giữ ý nghĩ. Như lý tác ý là nghĩ tới, giữ ý nghĩ phù hợp với chân lý, với sự thật. Đức Phật cho biết vì không như lý tác ý mà các sai lầm, mê muội và phiền luỵ chưa sinh sinh khởi, các sai lầm, mê muội và phiền luỵ đã sinh tăng trưởng; và vì như lý tác ý mà các sai lầm, mê muội và phiền luỵ đã sinh được đoạn tận và các sai lầm, mê muội và phiền luỵ chưa sinh không còn sinh:
Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.[7]

4. Chướng ngại trong tu tập thiền định
Có năm chướng ngại trong thiền định được xác định từ thời Đức Phật Gotama: Tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo hối và hoài nghi. Khi loại bỏ được năm chướng ngại này trên thân và trong tâm, người thiền tập có thể đi vào vắng lặng ở cấp độ thứ nhất (Sơ thiền). Đức Phật Gotama, qua trải nghiệm tự thân, cho biết có bốn cấp độ vắng lặng: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Từ Sơ thiền đi đến Tứ thiền phụ thuộc vào mức độ xả ly của tâm. Đoạn trừ Năm triền cái sẽ vào được Sơ thiền. Lúc này tâm vắng lặng không có tham dục, sân hận, hôm trầm, trạo hối và hoài nghi nữa. Tâm chỉ còn nội tĩnh, chuyên nhất, có hân hoan và mãn nguyện cùng với một sức mạnh chú tâm an trú trên đối tượng chú tâm.
An trú được Sơ thiền, thân và tâm rất an ổn. Thân thoải mái, tâm thư thái, sáng suốt và đầy định tĩnh. Tuy nhiên, vẫn còn một ít vi tế của cố gắng hướng tâm (tầm) và giữ tâm (tứ). Khi một người an trú được Sơ thiền tập trung sâu hơn vào định tĩnh (nhất tâm), hân hoan và mãn nguyện (hỷ và lạc), lực hướng tâm (tầm) và lực giữ tâm (tứ) tự nhiên biến mất. Người ấy kinh nghiệm một trạng thái bất động kỳ diệu mới của thân và tâm. Năm giác quan tự nhiên khép lại, chỉ có ý thức ở dạng vi tế hiện hữu. Không còn phải hướng tâm hay giữ tâm gì nữa. Thân bất động và tâm định tĩnh mãnh liệt một cách tự nhiên trong hoan hỷ và mãn nguyện. Trạng thái thân bất động và tâm định tĩnh mãnh liệt một cách tự nhiên trong hoan hỷ và mãn nguyện đó là Nhị thiền.
Sau khi an trú được Nhị thiền, thân tâm rất hoan hỷ, mãn nguyện và định tĩnh. Năm giác quan khép lại. Một trạng thái vắng lặng, an ổn, có hoan hỷ và mãn nguyện, mà không một cố gắng nào cần đến nữa. Dù vậy, người an trú Nhị thiền thấy hoan hỷ vẫn là yếu tố vi tế của ái và thủ. Người ấy tiếp tục thanh tịnh hoan hỷ bằng cách tập trung sâu với tâm xả vào tĩnh lặng và mãn nguyện (Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác). Hoan hỷ biến mất, một trạng thái vắng lặng sâu hơn đi kèm với mãn nguyện sinh khởi. Trạng thái vắng lặng sâu với tâm xả và mãn nguyện chính là Tam thiền.
Ở Tam thiền, lạc thọ còn có mặt. Sự mãn nguyện còn có mặt. Ở Tứ thiền, cảm thọ khổ đau và thoả mãn không còn. Hân hoan và mãn nguyện đã cảm thọ từ ba tầng thiền trước đó cũng vắng mặt. Hoàn toàn vắng lặng, uy lực, tự nhiên và thanh tịnh. Đức Phật diễn tả là: Không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Một người an trú Tam thiền, thấy Tam thiền có vi tế của tham chấp biểu hiện qua cảm thọ mãn nguyện, người ấy xả ly mãn nguyện, xả ly tất cả cảm xúc, nhớ nghĩ, mong muốn. Chỉ an ổn trú xả, không có niệm, không có thời gian hay không gian, không có so sánh cũng không có phán xét. Tỉnh giác, thuần tịnh và biết rõ tỉnh giác thuần tịnh. Người ấy sẽ chính thức bước vào Tứ thiền: Xả niệm thanh tịnh, không khổ không lạc và không hỷ không ưu.
Để loại bỏ Năm chướng ngại, Đức Phật Gotama cho biết phải bắt đầu từ có giới đức, biết đủ, phòng hộ các căn và chánh niệm tỉnh giác.[8] Tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo hối và hoài nghi không thể mọc rễ trong đời sống có giới đức, biết đủ, phòng hộ các căn và chánh niệm tỉnh giác. Ngoài ra, tinh thần trải nghiệm và từ bi với bản thân sẽ cho phép người thiền tập tiếp xúc với những khó khăn, dù đó là thân đau hay tâm tán loạn, trong quá trình thiền tập với tâm thái cởi mở và khám phá. Từ đó, người thiền tập có thể buông bỏ kỳ vọng, không còn đối lực, để cho niềm cảm hứng khám phá có mặt và tâm vắng lặng cũng có mặt tự nhiên.
5. Không đi sẽ không tới
Không có thành tựu nào có giá trị mà không kinh nghiệm khó khăn. Phải có đi thì mới có tới. Càng khó khăn, người thiền tập càng có cơ hội hiểu đúng giá trị của thiền. Đức Phật Gotama có 6 năm tự mình kinh nghiệm mới đi tới tận cùng giác ngộ. Phải đi tới. Phải khám phá và kinh nghiệm. Đường tuy ngắn không đi sẽ không tới; việc tuy nhỏ không làm sẽ không xong. Những tuyệt vời của thiền sẽ không bao giờ có trong một tâm thức thiếu kỷ luật và quyết tâm. Lịch sử nhân loại cho thấy thành công không phụ thuộc quá nhiều vào tài năng và cơ hội bằng sựu tập trung và kiên trì. Tập trung được vào nội dung mình hướng tới và kiên trì với mục đích hướng tới của mình, việc đi vào vắng lặng, nhất tâm của thiền định không phải là quá khó. Cái khó không nằm ở việc khó. Cái khó thật sự luôn nằm ở lòng người ngại khó. Khi ai đó ngại khó, không có gì là không khó đối với họ, nhất là khó đi vào an tịnh và vắng lặng tâm tư.
6. Bảo hộ cuối cùng
Khi nghĩ về cái chết, đặc biệt quán niệm về sự mục rã của xác thân và tự nghiệm về tâm thức cuối cùng sau xác thân mục rã, chúng ta sẽ thấy mình buông xả và đi vào an tĩnh, vắng lặng, nhất tâm thiền định rất tự nhiên.
Kinh nghiệm của Đức Phật Gotama cho biết: “Niệm chết được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử.”[9] Những học trò của Đức Phật luôn được hướng dẫn, khích lệ niệm chết và làm cho sung mãn niệm chết:
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm vừa an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều: (1). Con rắn có thể cắn ta. Con bò cạp có thể cắn ta. Hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung; như vậy sẽ chướng ngại cho ta. (2). Ta có thể vấp ngã và té xuống. (3). Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn. (4). Mật có thể khuấy động ta. (5). Đàm có thể khuấy động ta. (6). Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. (7). Người có thể công kích ta. (8). Hay phi nhân có thể công kích ta, do vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau: "Nếu ta còn có những pháp ác, bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta ".
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau: "Ta có những pháp ác, bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác, bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác, bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm, và tỉnh giác.
Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau: "Ta không có những pháp ác, bất thiện chưa đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ hân hoan, ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, niệm về chết tu tập như vậy làm cho sung mãn như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử.”[10]
Nghĩ về cái chết có thể xem như bảo hộ cuối cùng trong đời sống thiền tập. Cái chết cuối cùng sẽ xoá sạch mọi tham dục tích góp, sân hận mê muội và ái kỷ vô thức. Mọi thứ từ sắc thân, tài sản cho đến danh tiếng đều sụp đổ trước cái chết. Nếu mỗi ngày người thiền tập có ý thức “ngắn ngủi thay là tuổi thọ loài người ở đời này; người sống lâu chỉ có một trăm năm, hoặc ít hơn, hoặc nhiều hơn”[11], và thường tự nhắc chính mình:
Chết là một sự thật. Chết là điều chắc chắn sẽ đến. Mạng sống sẽ chấm dứt với nhiều nhân duyên không hẹn trước. Không ai có thể thay thế mình chết. Tất cả những yêu ghét đều phải bỏ lại khi chết. Gia sản, danh quyền, sự nghiệp, người thân cũng đều bỏ lại. Mình cần trân trọng những tháng năm mình có. Mình cần xây dựng thiện nghiệp cho tự thân và khích lệ xây dựng thiện nghiệp cho mọi người. Mình cần có chánh niệm, thiền định và tuệ giác. Mình cần nhiệt tâm và tinh cần cho những gì quan trọng và thiết thực. Buông xả những gì cần buông xả. An lạc ngay trong hiện tại. Thả bay mặc cảm và kiêu ngạo. Chết là đều chắc chắn. Không cần nắm giữ tướng chung mà cũng không cần nắm giữ tướng riêng. Cho mình là mình và người là người. Thuận pháp chánh niệm và tuỳ duyên định an.
Người ấy sẽ không còn thấy lưu luyến, cố giữ, lo sợ, mặc cảm hay sầu bi vô thức nữa. Người ấy sẽ đi từ buông xả này đến buông xả khác. Càng buông xả, người ấy càng nhất tâm định tĩnh. Việc bước vào các trạng thái nội tĩnh nhất tâm hay việc tu tập thiền định sẽ không còn quá khó nữa trong biết mình có thể chết hôm nay hay ngày mai.
--------
[1] Tiểu Kinh Phương Quảng, MN.44.
[2] Kinh Quán Niệm Hơi Thở, MN.118.
[3] Kinh Tứ Niệm Xứ, MN.10.
[4] Kinh Tứ Niệm Xứ, MN.10.
[5] Trưởng Lão Tăng Kệ
[6] Cảm Hứng Ngữ, Ud. 5.61.
[7] Kinh Tất Cả Lậu Hoặc, MN.2.
[8] Kinh Sa Môn Quả, DN.2.
[9] Tăng Chi Bộ IV, 18, Niệm Chết.
[10] Tăng Chi Bộ IV, 18, Niệm Chết.
[11]Tương Ưng Bộ I, 240, Tuổi Thọ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thiền tông Việt Nam qua Thiền sư Cứu Chỉ
Nghiên cứuSư họ Đàm, làng Phù Đàm, phủ Châu Minh (tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho sách Phật đều đọc. Một hôm cầm sách tự than: ‘Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở thế tục chẳng phải là pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có không, có thể dứt sanh tử; nhưng phải siêng tu giữ giới, cầu thiện tri thức ấn chứng mới được’.
Pháp môn Tịnh độ ở Nam bộ Việt Nam
Nghiên cứuDo bối cảnh địa-lịch sử và địa-văn hóa đặc thù ở Nam bộ Việt Nam, đã xuất hiện khá nhiều hội đoàn, đạo giáo có thực hành pháp môn Tịnh độ so với các vùng miền khác trong cả nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tông phái Tịnh độ riêng biệt.
Tâm giải thoát là tiêu chuẩn duy nhất xác chứng một vị A-la-hán
Nghiên cứuTrong suốt lịch sử Phật giáo, hình ảnh bậc A-la-hán luôn là biểu tượng tối thượng của con đường giải thoát, là đích đến của Giới Định Tuệ, là cánh cửa mở ra Niết-bàn không còn tái sinh. Nhưng để hiểu đúng về A-la-hán, người học Phật phải vượt qua mọi lớp khái niệm vay mượn, mọi tưởng tri thần thoại, để trở về với chân nghĩa mà Đức Thế Tôn từng dạy trong các kinh tạng nguyên thủy.
Xem thêm















