Chén trà Tào Khê
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm “Bình minh nhất trản trà”. Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
Mỗi sáng sớm trước giờ công phu, thị giả dâng đến chư tôn đức những chén trà đạo vị của trường hạ Quảng Đức, Melbourne, Úc châu, khiến tôi nhớ đến mùi thơm của chén trà Tào Khê năm nào. Trong nhà Thiền ai cũng từng nghe qua câu:
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”; hay những cụm từ có tính cách kinh điển như “ăn cơm Hương Tích”, “uống trà Tào Khê”, “ngồi thuyền Bát Nhã”, “ngắm trăng Lăng Già”... Ở đây, trà Tào Khê là loại trà như thế nào?
Tào Khê, vốn là một địa danh nổi tiếng trong Phật giáo. Thuở ban đầu Tào Khê là tên của một dòng suối chảy trước chùa Hoa Nam, thuộc núi Song Phong, quận Khúc Giang, thành phố Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa. Tương truyền vào năm 502 Tây lịch, một nhà sư Ấn Độ tên là Trí Dược Tam Tạng đi thuyền sang Trung Hoa để truyền đạo. Khi thuyền đi ngang dòng Tào Khê, ngài Trí Dược lấy tay vốc nước nếm thử, thấy thơm ngon, liền bảo:“Đầu nguồn suối này ắt có nơi đất tốt”. Ngài liền ngược dòng tìm lên nguồn, mở núi dựng chùa, đặt tên là Bảo Lâm tự (sau này đổi thành Hoa Nam tự). Về sau, ngài Huệ Năng, vị Tổ đời thứ sáu của Thiền tông Trung Quốc, đến đây hoằng pháp, thổi một luồng gió mới cho đời sống tu hành của người đệ tử Phật với pháp tu đốn ngộ. Từ đó hàng triệu đệ tử Phật khắp nơi đã nhờ vào pháp tu của ngài mà đạt đến hạnh phúc, an lạc, giác ngộ và giải thoát.

Chính vì sự xuất hiện của Lục tổ Huệ Năng ở Tào Khê mà cảnh trí ở nơi này đã trở thành Phật cảnh, y báo và chánh báo của suối Tào Khê và chùa Hoa Nam đều viên mãn. Con người giác ngộ ở đâu thì cảnh vật ở nơi đó đều thay đổi, môi trường sống xung quanh trở nên mát mẻ và thanh thoát. Và cũng từ đó, nói đến Tào Khê là nói về Lục tổ Huệ Năng và cõi giới tu hành của ngài. Tào Khê đã trở thành một danh thắng tâm linh, là điểm đến của khách hành hương. Hiện nay có hàng vạn lượt người đổ về đây để chiêm bái mỗi ngày. Khách đến đây được đãi chén trà thơm lấy từ dòng suối Tào Khê trước chùa, sẽ cảm thấy lòng mình an lạc sảng khoái đến lạ lùng. Chỉ cần được một ngụm trà Tào Khê rồi, hành giả sẽ không bao giờ có thể quên được hương vị độc nhất vô nhị của nó. Thật đúng như lời tự tình của một vị Thiền sư “Đến đây rồi niềm vui khó tả trình, chỉ nhìn thấy nụ cười luôn hé nở”. Và cũng từ đó, dòng suối Tào Khê được xem là tượng trưng cho dòng nước cam lồ có tác dụng tẩy sạch phiền não, nhiễm ô, xóa tan đi mọi bụi trần khổ đau của nhân thế.
Trà Tào Khê thực sự là những giọt nước cam lồ mát dịu, một dòng suối từ bi chảy dài xuyên suốt qua bao thế kỷ, mang theo chất liệu mát ngọt của trí tuệ và từ bi để nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng của bao thế hệ nhân sinh. Hình ảnh chén trà Tào Khê trong cửa thiền của Tổ Huệ Năng lưu lại đẹp lung linh kỳ ảo, nhìn vào đó ta thấy tất cả cội nguồn tâm linh của quá trình dấn thân hành đạo của chư vị tiền bối, từ Phật tổ Thích-ca; Sơ tổ Ca-diếp; Nhị tổ A-nan; Tổ 28 Ấn Độ và cũng là Sơ tổ Trung Hoa, Bồ-đề Đạt-ma, rồi truyền xuống cho Huệ Khả; Tăng Xán; Đạo Tín; Hoằng Nhẫn và Huệ Năng.
Lục tổ Huệ Năng (638-713) là người đắc đạo lúc chưa xuất gia, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông, là đệ tử truyền thừa của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ngài họ Lô, sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, nên không được đi học; lớn lên làm nghề bán củi để nuôi mẹ. Năm 22 tuổi, một ngày nọ, nhân một lần đi bán củi, nghe một người tụng kinh, ngài liền hỏi tụng kinh gì mà nghe hay quá; người đó bảo là do đi viếng chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai, xứ Kỳ Châu, nghe Ngũ tổ Hoằng Nhẫn giảng rằng nếu ai thọ trì kinh Kim Cang thì liền thấy tánh và sẽ thành Phật. Nhờ có nhân duyên từ kiếp trước, nên ngài Huệ Năng đã được người giúp cho mười lượng bạc để lo cho mẹ già, rồi ngài an tâm lên đường để tìm đến Huỳnh Mai tu học. Đi bộ gần hai tháng trời mới đến nơi. Khi gặp mặt, được Ngũ tổ hỏi: “Con là người phương nào, đến đây cầu việc gì?”, Huệ Năng đáp: “Con là người ở Lãnh Nam, đến đây chỉ cầu thành Phật”. Ngũ tổ bảo: “Là người Lãnh Nam, giống người dã man, thành Phật thế nào được?”; Huệ Năng thưa: “Con người tuy phân có Nam Bắc, nhưng Phật tánh nào có Bắc Nam?”.
Qua cách đối đáp, Tổ Hoằng Nhẫn nhận ra ngay đây không phải là người thường, nhưng không truyền pháp ngay, cho xuống bếp làm công quả gánh nước, giã gạo... Hơn tám tháng sau, Ngũ tổ thấy đã đến lúc phải truyền tâm ấn cho người kế thừa, nên tập chúng và ra lệnh cho chúng đệ tử mỗi người viết kệ trình bày sở chứng của mình. Lúc ấy chỉ có thầy Thần Tú, một đệ tử lớn, tri thức xuất chúng, đã trình kệ: “Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhạ trần ai”, nghĩa là:“Thân là cội Bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Phải luôn nhớ lau chùi, Chớ để dính bụi trần”. Ngài Thần Tú so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm người như đài gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Lúc ấy, Tổ Huệ Năng đang giã gạo trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa tỏ ngộ đạo mầu, nên ngài đã nhờ người khác viết bài kệ của mình như sau: “Bồ-đề bổn vô thọ, minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?” nghĩa là: “Bồ-đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng chẳng phải là đài, Xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần?”. Nghe bài kệ, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn biết Huệ Năng vượt hẳn Thần Tú, đã kiến tánh, nhưng sợ tổn hại đến Huệ Năng, nên nửa đêm gọi Huệ Năng vào tịnh thất và thuyết trọn kinh Kim Cang cho ngài. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm”, “Đừng để tâm vướng víu nơi nào”, ngài hoát nhiên đại ngộ và thốt ra bốn câu: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không dao động, nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp”. Ngũ tổ truyền y bát cho ngài và khuyên ngài đi về phương Nam.
Tiếp đó, trong suốt mười lăm năm, ngài Huệ Năng vẫn trong thân phận là cư sĩ, ở ẩn trong nhóm người thợ săn, họ bắt ngài giữ lưới, thấy có thú rừng lọt vào thì mở ra thả, và tùy nghi thuyết pháp cho chúng. Đến bữa ăn thì ngài phương tiện ăn rau gởi trong nồi nấu thịt của họ. Sau đó, cơ duyên đến, Ngài về chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, chứng kiến hai vị Tăng tranh cãi quyết liệt, bất phân thắng bại về tấm phướn treo trước chùa. “Phướn động hay gió động”. Tổ Huệ Năng khai thị “không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà tâm các vị động”, lúc ấy thầy trụ trì Ấn Tông đến hỏi: “Nghe nói y pháp Huỳnh Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả đây?”. Lúc đó ngài mới tự nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ. Sư Ấn Tông tổ chức lễ thế phát cho ngài và nhận ngài làm thầy.
Sau đó, Tổ Huệ Năng bắt đầu giáo hóa ở chùa Pháp Tánh, rồi về chùa Bảo Lâm ở suối Tào Khê và thành lập Nam tông Thiền phái, xiển dương pháp tu đốn ngộ, tức chứng ngộ ngay tức khắc, một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác, trong lúc ngài Thần Tú chủ trương tiệm ngộ, pháp tu giác ngộ từ từ theo thời gian, dùng suy luận, tu tập theo chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái đốn ngộ và tiệm ngộ, pháp môn của Tổ Huệ Năng đã chứng tỏ sinh lực của mình, sản sinh ra vô số Đại sư và trở thành truyền phái đích thật của Phật pháp tại Trung Quốc và truyền ra nước ngoài, còn phái của ngài Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là khô chết.
Sau đời của Tổ Huệ Năng, chén trà Tào Khê theo chân của các Thiền sư truyền đến Việt Nam. Tại VN qua sự truyền thừa của Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung, khai sơn chùa Ấn Tôn, tức chùa Từ Ðàm, Huế; Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam; Pháp phái Liễu Quán xuất phát từ Tổ Liễu Quán quê ở Phú Yên, đệ tử cầu pháp với Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung. Thiền phái Lâm Tế Liễu Quán đã phát triển rực rỡ ở Huế, Nha Trang, Sài Gòn và Lâm Tế Chúc Thánh qua sự giáo hóa của Tổ Minh Hải Pháp Bảo đã truyền trì và phát triển mạnh ở Hội An, Quảng Nam, Bình Định...
Pháp phái Lâm Tế Liễu Quán do Tổ Liễu Quán truyền theo bài kệ như sau:
Thiệt Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tôn
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không.
Pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh do Tổ Minh Hải khai sáng được truyền thừa thứ tự theo bài kệ truyền pháp ở Quảng Nam như sau:
Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường.
Đắc Chánh Luật Vi Tuyên
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhân Thiên Trung.
Trong khi ở Bình Định, bài kệ này được truyền lại như sau:
Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Vạn Hữu Duy Nhất Thể
Quán Liễu Tâm Cảnh Không
Giới hương thành chánh quả
Giác Hải Dũng Liên Hoa
Tinh Tấn Sanh Phước Huệ
Hạnh Trí Giải Viên Thông
Ảnh Nguyệt Thanh Trung Thủy
Vân Phi Nhật Khứ Lai
Đạt Ngộ Vi Diệu Tánh
Hoằng Khai Tổ Đạo Trường.
Trong khi đó ở miền Bắc Việt thì có phái Thiền Tào Động, do các ngài Tào Sơn Bản Tịch (840-901) và Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) sáng lập từ Trung Hoa truyền vào, nhiều chùa được tạo dựng như chùa Trấn Quốc, chùa Hòe Nhai để truyền bá Phật pháp. Nhìn chung, cả ba phái Thiền từ Trung Hoa sau thời của ngài Huệ Năng, phái Tào Động ở Đàng Ngoài dưới thời chúa Trịnh, hai phái Lâm Tế Liễu Quán và Lâm Tế Chúc Thánh truyền ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn, về sau đều phát triển và ảnh hưởng rộng khắp trên toàn cõi VN, từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau. Đặc biệt sau 1975, các dòng Thiền này được người con nước Việt truyền ra và phát triển mạnh ở Hoa Kỳ, Canada, Âu châu & Úc châu. Mong rằng chư tôn đức Tăng Ni khi làm lễ quy y cho các đệ tử, nên đặt pháp danh theo các bài kệ truyền thống trên để gìn giữ mạng mạch truyền đăng tục diệm, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
Dòng suối Tào Khê cũng chảy xuống xứ sở Triều Tiên một cách mạnh mẽ, hiện tại tông phái Thiền sâu rộng nhất là Thiền phái Tào Khê (Jogye) được Thiền sư Đạo Nghi (Myeongjeok Doui, 1301-1382), một Tăng sĩ Hàn Quốc nổi tiếng trở về từ Trung Hoa vào năm 1346 và lập nên Thiền phái này trong triều đại Tân La Thống Nhất (Unified Silla). Ngài cho rằng Thiền là một pháp tu tốt nhất để đạt tới giác ngộ. Những bộ kinh căn bản của Thiền phái này là Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Bảo Đàn. Có khoảng 1.725 ngôi chùa là chi nhánh ở khắp trong và ngoài Triều Tiên; khoảng 10.056 Tăng Ni hành đạo và gần 10 triệu Phật tử qui y theo phái Tào Khê này.
Bên cạnh Triều Tiên, dòng suối Tào Khê cũng chảy qua xứ hoa Anh Đào Nhật Bản vào thế kỷ thứ IX từ Trung Hoa, tại đây hai Thiền phái Lâm Tế và Tào Động đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Lục tổ Huệ Năng. Thứ nhất, Thiền phái Lâm Tế (Rinzai Sect): do công khai sáng của Thiền sư người Nhật Vinh Tây (Eisai, 1141- 1215). Ngài xuất gia từ năm mười ba tuổi ở chùa An Dưỡng (Annyo) ở Kibitsu. Ngài đã đến Trung Hoa để học đạo trong hai lần, vào những năm 1168 và 1187. Lần sau cùng Ngài về đến Nhật vào năm 1191 và xây dựng chùa Shofuku ở Hakata. Ngôi chùa này được xem là ngôi chùa đầu tiên trên đất nước này. Năm 1215, triều đình Nhật xây dựng chùa Kiến Nhân (Kennin-ji) tại Kyoto, ngài được thỉnh về là Chứng minh Đạo sư cho ngôi già-lam này. Ngài cũng được xem là người có công trong văn hóa uống trà của Nhật, đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng ở Nhật. Vị Thiền sư nổi tiếng của Thiền phái này về sau là ngài Bạch Ẩn (Hakui Ekaku, 1685-1786) với những tác phẩm để lại cho đời. Ngày nay ở Nhật có 14 chi phái thuộc dòng Thiền này, tuy không hợp nhất về tổ chức, nhưng vẫn theo đuổi lý tưởng ban đầu của Tổ sư Vinh Tây. Thứ hai, Thiền Tào Động (Soto/Tsao-tung): là một trong năm Thiền phái chính của Trung Hoa và là một trong mười ba tông phái chính của Phật giáo Nhật. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu như để so sánh với Thiền Lâm Tế. Nếu Lâm Tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Tào Động lại gần gũi với tầng lớp bình dân. Thiền Tào Động được Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) khai sáng. Ngài Đạo Nguyên vốn là đệ tử của Tổ Vinh Tây, sau đó ngài sang Trung Hoa du học và trở về Nhật Bản xây dựng Thiền phái này. Người kế thừa và làm lớn mạnh dòng Thiền này là Thiền sư Suzuki Shosan (1579-1653). Hiện nay ngôi già-lam chính của Thiền phái này là chùa Tổng Trì (Soji-ji) ở Yokohama do Thiền sư Hành Cơ (Gyogi, 666-749) tạo dựng năm 1321.
Sự phát xuất của lá trà Tào Khê cũng lung linh kỳ tuyệt, đó là lá trà của Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma. Năm xưa, lúc ngài từ Ấn sang Trung Hoa để truyền đạo, vì chưa đến cơ duyên khai thị cho vua Lương Võ Đế, nên ngài đã vào núi Thiếu Lâm để thiền tọa suốt chín năm, chờ đợi thời cơ; trong lúc thiền tọa, ngài ngủ gật, bực mình, ngài đã đưa tay xé mí mắt của mình vứt xuống đất; ngay tại đó, đã mọc lên một loại cây có lá xanh tươi, lấy lá đó nấu nước uống, tỉnh thức đến lạ kỳ; về sau người ta gọi đó là lá trà. Giờ đây chúng ta uống chén trà này, lá trà lấy từ Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma và lấy nước từ suối Tào Khê của Tổ Huệ Năng, để tạo nên một chén trà tỉnh thức giác ngộ. Đó là một hình ảnh tuyệt mỹ lấp lánh có một không hai trên thế gian này.
Tóm lại, dòng chảy giác ngộ và tỉnh thức kia đã bắt nguồn từ đỉnh Hy-mã-lạp sơn Ấn Độ, rồi chảy xuống Trường An, Lạc Dương, rồi nối kết với dòng suối Tào Khê ở Quảng Châu, rồi chia ra thành 5 nhánh (1. Lâm Tế, 2. Quy Ngưỡng, 3. Tào Động , 4.Vân Môn, 5. Pháp Nhãn), trong đó, có nhánh chảy qua Triều Tiên, Nhật Bản, có nhánh chảy vào Việt Nam, rồi lan truyền đến các quốc gia phương Tây. Dòng suối mát Tào Khê hiện đã chảy vào các vùng đất lạ ở trên toàn cầu như Trung Đông và châu Phi. Dòng suối mát Tào Khê, chảy đến đâu đều mang lại đặc chất mát dịu, ngọt ngào và tỉnh thức đến đấy, ai đó có duyên may uống được ngụm trà Tào Khê này lập tức nhận ra đường đi lối về của nhân quả nghiệp báo, để rồi lo tĩnh tu giác ngộ và giải thoát.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thiền tông Việt Nam qua Thiền sư Cứu Chỉ
Nghiên cứuSư họ Đàm, làng Phù Đàm, phủ Châu Minh (tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho sách Phật đều đọc. Một hôm cầm sách tự than: ‘Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở thế tục chẳng phải là pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có không, có thể dứt sanh tử; nhưng phải siêng tu giữ giới, cầu thiện tri thức ấn chứng mới được’.
Pháp môn Tịnh độ ở Nam bộ Việt Nam
Nghiên cứuDo bối cảnh địa-lịch sử và địa-văn hóa đặc thù ở Nam bộ Việt Nam, đã xuất hiện khá nhiều hội đoàn, đạo giáo có thực hành pháp môn Tịnh độ so với các vùng miền khác trong cả nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tông phái Tịnh độ riêng biệt.
Tâm giải thoát là tiêu chuẩn duy nhất xác chứng một vị A-la-hán
Nghiên cứuTrong suốt lịch sử Phật giáo, hình ảnh bậc A-la-hán luôn là biểu tượng tối thượng của con đường giải thoát, là đích đến của Giới Định Tuệ, là cánh cửa mở ra Niết-bàn không còn tái sinh. Nhưng để hiểu đúng về A-la-hán, người học Phật phải vượt qua mọi lớp khái niệm vay mượn, mọi tưởng tri thần thoại, để trở về với chân nghĩa mà Đức Thế Tôn từng dạy trong các kinh tạng nguyên thủy.
Sự ra đời và hoạt động của Giáo hội Lục hòa tăng
Nghiên cứuSự ra đời của Giáo hội lục hoà tăng nhằm “duy trì nền tảng cổ truyền và thực hiện nền giáo dục Phật lý mà nghìn xưa đức Phật đã dạy.
Xem thêm














