Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Thầy là bóng tùng che mát (Kỳ 5)
Lời Ban biên tập
Loạt bài này do Cư sĩ, nhà báo Lưu Đình Long tổ chức thực hiện, với sự đóng góp bài vở của các cây bút, nhà báo nhiều năm gắn với Phật giáo, viết về Phật giáo...
Cư sĩ Lưu Đình Long nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền thông - báo chí Phật giáo, một tác giả của nhiều chuyên mục "ăn khách" trên VnExpress, Dân Trí, Tuổi Trẻ như Góc nhìn, Tâm điểm, Thời sự & suy nghĩ...
Trong công tác tòa soạn, nhà báo Lưu Đình Long nguyên Phó Thư ký Tòa soạn báo Giác Ngộ, phụ trách Giác Ngộ online.
Kỳ 6: Thầy là bóng tùng che mát
Như kỳ 4 chúng tôi đã chia sẻ, nhóm thực hiện có duyên trò chuyện với Thượng tọa Thích Thanh Vịnh, một trong những đại đệ tử của Đức Đệ tam Pháp chủ - Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ.
Vị Thượng tọa tự nhận, “Tôi hầu cụ Tổ từ khi mới vào chùa tu học đến khi Ngài theo hầu Phật” đã có những hồi ức xúc động về Thầy mình.

Là một trong những vị kề cận và theo hầu Đức Đệ tam Pháp chủ ngay từ những buổi đầu cho đến khi Ngài viên tịch, chắc hẳn Thượng tọa có rất nhiều kỷ niệm đối với bổn sư của mình. Xin Thượng tọa có thể chia sẻ một vài kỷ niệm sâu sắc đáng nhớ nhất đối với Đức Đệ tam Pháp chủ?
- Từ khi mà chúng tôi về hầu cụ Tổ (Đức Đệ tam Pháp chủ Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - NV) ở đây, năm đó là năm 1992 trở đi, thì có rất nhiều kỷ niệm, trong đó có một điều mà đến nay tôi vẫn ấn tượng nhất.
Thời điểm trước đây, ở địa phương này, nhìn chung, nhân dân bà con và điều kiện kinh tế lúc bấy giờ còn rất khó khăn, đường sá đi lại cũng còn chưa được thông thoáng, thuận tiện như bây giờ. Lúc ấy, chùa cần phải sửa chữa, tu bổ, nhưng vật liệu xây dựng là một vấn đề rất lớn trong bối cảnh xã hội đương thời. Cụ Tổ tính vốn tự lập, dẫu biết sẽ gặp nhiều trở ngại nhưng Ngài không hề kêu gọi quyên góp, vì Ngài ý thức rằng bà con ở đây điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Vậy là Ngài động viên chư Tăng cũng như Phật tử hùn công, rồi Thầy trò cùng nhau tích cực đào đất, tự đóng gạch, rồi đem phơi thành gạch mộc, sau mới đốt nung gạch cho trở thành viên gạch có thể dùng để xây nhà được.
Thế thì khi đó, ở giai đoạn đang phơi gạch mộc chờ ngày đi nung, chúng tôi không có sẵn những phương tiện để che đậy như bây giờ. Vậy là hôm ấy, trời mưa dông ngay vào tầm nửa đêm. Chúng tôi bấy giờ lại ít tuổi, đang ở cái độ sức ăn sức ngủ, không hay biết gì. Trời mưa gió, sợ gạch bị ướt, một mình cụ Tổ không xuể, Ngài phải gọi mọi người dậy, mỗi người một tay, chúng tôi mắt nhắm mắt mở chạy đi ôm mấy đống rơm vào che chắn cho dãy gạch tránh bị ướt.
Bên cạnh gạch thì cụ Tổ còn cho đào đất ở quanh chùa, nơi các bờ tre, để lấy cát non, trộn với vôi làm chất kết dính. Bấy giờ cát là vật liệu hiếm, phần lớn chỉ có cát non, giá thành lại đắt đỏ, nên Ngài mới chủ động tìm kiếm, sáng kiến làm nên chất liệu xây dựng từ các bờ tre quanh chùa là vậy. Cũng chính bờ tre ấy, Ngài chỉ đạo, hướng dẫn cách dựng rào tre, che chắn động vật không vào phá hoại ngô khoai mà chùa trồng. Rồi làm sao thay thế rào tre khi tre cũ đã khô mục, cho đến việc chăm sóc, dựng rào làm sao cho tươi tắn, sống lâu… Ngài chỉ dạy hàng đệ tử chúng tôi tận tình từng việc một như thế.
Qua những kỷ niệm ấy, điều đọng lại sâu sắc trong trí nhớ của tôi là hình ảnh một vị Thầy Tổ rất chân phương, mộc mạc. Thường thì chúng ta thấy, những việc như tu bổ, xây dựng chùa chiềng, chúng ta có thể kêu gọi sự phát tâm, hùn tịnh tài tịnh vật cho chùa xây dựng. Rồi đến công trình thi công, trong quá trình ấy vị trụ trì thường giao phó lại cho một vị nào đó phụ trách trông coi. Thế nhưng ở đây, cụ Tổ đều tự tay làm nên từng viên gạch, từng vật liệu, tự mình động viên rồi Thầy trò cùng thực hiện xây dựng. Đến việc trông coi gạch, Ngài cũng xem nom tỉ mẫn, để tâm đến từng công đoạn tu bổ chứ không qua loa, phó mặc. Đó là cái đức cao quý ở Ngài mà chúng tôi được in khắc trong tâm khảm ngay từ những buổi đầu.
Đối với việc học tập, Ngài cũng để lại nhiều ấn tượng trong tôi. Ngày ấy, cứ đêm tầm 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng, khi chúng đệ tử còn yên giấc thì Ngài vẫn thức, hoặc đã dậy và bắt đầu xem kinh sách. Khi chúng tôi hỏi vì sao Ngài không ngủ thêm thì được biết là cứ đến tầm giờ ấy là Ngài không ngủ được nữa. Đúng ra mà nói, đó cũng là khoảng thời gian tĩnh bình, thanh vắng nhất trong ngày, nên thay vì ngủ, Ngài dành khoảng thời gian ấy cho việc xem, nghiên cứu kinh sách, phiên dịch kinh điển… Đây cũng là hạnh chịu khó, khắc phục khó khăn và tự lập rất cao ở Ngài mà hàng hậu học chúng tôi được tiếp thu học hỏi, lấy làm động lực tu học, suốt thời gian hầu cận bên Ngài.
Như vậy, dù trong thời kỳ khó khăn thì tình Thầy trò ắt hẳn cũng rất là dễ thương, phải không thưa Thượng tọa?
- Dạ vâng. Đúng rồi. Dù ngay trong thời khó khăn đó thì Thầy trò vẫn rất gắn bó. Nhà chùa thì bao giờ cũng thế. Tình Thầy trò gắn bó cũng như là cha con. Là vì khi chúng tôi di xuất gia thì cũng xa rời gia đình, rồi về đây hầu Tổ, hầu Thầy, đó là một tình cảm rất thiêng liêng.
Bản thân các Ngài lớn tuổi, nhưng các Ngài vẫn luôn dành tình thương, có sự gần gũi, thậm chí rất tâm lý đối với hàng đệ tử chúng tôi. Tuy nhiên, dẫu yêu thương học trò, tất nhiên như người xưa hay nói “thương cho roi cho vọt”, nên tình thương ấy rất sâu sắc, song vẫn mang tính cứng rắn.

Thưa Thượng tọa, nhân duyên nào để Thượng tọa biết và gặp được Đức Đệ tam Pháp chủ và phát tâm xuất gia với Ngài?
- Thực tế thì trước đây, cụ thân mẫu của tôi cũng là một Phật tử, thờ Phật và tụng kinh. Thế cho nên khi mà cụ đi các chùa, dự lễ giỗ, thì cụ cũng nghe các cụ, các thầy, các sư nói chuyện về đạo hạnh, cũng như ca ngợi về cái sở học, trí tuệ của Ngài. Từ đó, cụ tôi mới dẫn chúng tôi lên chùa, đấy cũng là cái nhân duyên.
Tôi còn nhớ, chùa quê ngày xưa vốn cách xa làng mạc, lại rất vắng vẻ, nên thường chùa sẽ nuôi một vài chú chó để phụ trông giữ cửa nẻo, hay báo hiệu có khách đến. Thế nhưng, hôm ấy, khi cụ thân mẫu dẫn chúng tôi lên chùa đảnh lễ Đức Đệ tam Pháp chủ, thì những chú chó ở đó lại hoàn toàn không sủa tý nào cả. Đức Đệ tam Pháp chủ lúc ấy đang buôn lạc ngoài vườn, khi vào Ngài thấy chúng tôi, còn đang ngạc nhiên thì cụ thân mẫu tôi trình bạch, xin với Ngài cho tôi được theo học Phật pháp với Ngài. Từ đó, tôi được Ngài thu nhận và theo hầu Ngài cho đến những ngày cuối cùng.
Như vậy, ngay từ khi chưa xuất gia, Thượng tọa đã được nghe về đức hạnh của Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ rồi, đúng không ạ?
- Vâng đúng vậy. Thực tế thì cụ thân mẫu tôi mới là người được nghe biết, rõ tường trước rồi về kể cho chúng tôi nghe. Tôi khi phát tâm xuất gia thì chỉ nghe theo thân mẫu là “à, theo các cụ, các Thầy, lên chùa đi tu”. Là như vậy thôi chứ còn lúc đó thì cũng không biết để có sự chọn lọc gì đâu. Khi ấy, cụ thân mẫu nghe vậy thì muốn đưa con lên nơi có các bậc Thầy đạo hạnh cũng như có sở học, cho con mình ở đấy theo học, chấp tác, noi theo sự chỉ dẫn công việc và học tập đạo hạnh của các Ngài.
Tôi còn nhớ, chính xác đó là giai đoạn năm 1992. Giai đoạn này Ngài vẫn chưa tham gia vào Ban Trị sự Trung ương hay Tỉnh hội, vì thời ấy ở đây vẫn còn là vùng nông thôn nghèo, vắng vẻ, đường đi còn khó khăn, cách trở, tạm gọi như vùng sâu vùng xa bây giờ vậy. Chùa lúc ấy nằm ở cuối huyện, cuối xã của Hà Nội, được xem là vùng nông thôn của đồng bằng Bắc bộ đấy. Chính vì thế nên không có người, Ngài cũng không tham gia sâu vào Giáo hội mà chỉ ở nhà để nghiên cứu sách kinh, hướng đến việc giáo hóa, hướng hóa bà con ở địa phương.

Từ khi là môn sinh của Đức Pháp chủ cho đến bây giờ cũng đã hơn 30 mươi mấy năm. Với đạo hạnh, đức hạnh sâu dày của Đức Pháp chủ được mọi người kính ngưỡng, thì đối với Thượng tọa, đức hạnh nào mà Thượng tọa học được và để ứng dụng vào trên con đường tu tập của mình?
- Phải nói rằng, đạo hạnh và đức hạnh của cụ Tổ là tấm gương sáng ngời cho hàng hậu học noi theo, nhất là hàng đệ tử mà tôi là một trong số đó. Chúng tôi mỗi ngày vẫn noi theo, chỉ dám nói là noi theo để sửa chữa, tu chỉnh chính mình, chứ để nói là học được đạo hạnh, đức hạnh của Ngài thì tôi vẫn còn phải tự nhắc nhở bản thân tiếp tục cố gắng mỗi ngày.
Tôi có cảm nhận được có một cái điều thế này. Tức là, ngài có một đức tính là tùy duyên, mà mãi đến về sau này thì tôi mới nhận ra, chứ lúc đó thì cũng không nhận ra và Ngài cũng không có nói đến điều đó. Đó là việc thờ cúng, thắp điện, đèn dầu nơi Tổ đường, khi nào có thập phương tín thí cúng dường nhiều thì Ngài thắp nhiều, có khi là 2 hay 3 ngọn đèn. Ngược lại, khi nào Phật tử khó khăn cúng ít đi, thì Ngài cũng hoan hỷ chỉ thắp một ngọn đèn.
Thì đó là pháp tùy duyên mà bất biến của Ngài. Khi duyên đủ thì Ngài thắp nhiều, duyên chưa đủ thì Ngài thắp ít. Ngài tùy duyên mà làm các công việc là như vậy. Chính vì thế cho nên, trong cả cuộc đời của Ngài ở đây, Ngài vận dụng pháp ấy trong từng hoạt động, từ sinh hoạt tu tập, cho đến tu bổ, sửa sang, tạo lập ngôi già lam, hay ngay trong sự nghiên cứu, tu học giáo pháp của Ngài cũng vậy… mọi thứ đều tùy duyên, được đến đâu hay đến đấy, đến đi rất nhẹ nhàng, không bị bất cứ sự chi phối nào của cái gọi là áp lực cả. Cho nên đạo hạnh tùy duyên của Ngài đây cũng là một tấm gương sáng ngời cho hàng đệ tử chúng tôi noi theo, nỗ lực hướng đến hạnh nguyện của Ngài.
Từ khi chưa viên tịch, Đức Pháp chủ đã được biết đến là một vị nông Tăng gần gũi. Thượng tọa có thể nói thêm về sự giản dị, gần gũi của Ngài không, bạch Thượng tọa?
- Năm 2007, khi đó Ngài được chư tôn đức trong Trung ương Giáo hội suy tôn lên ngôi vị Pháp chủ, nhưng Ngài luôn giữ sự khiêm cung. Tôi được nghe thuật lại rằng, trong giây phút được suy cử, Đức Pháp chủ đã nói trước chư tôn đức, đại ý rằng: “Việc Tăng sai thì không dám từ lai, nhưng về đức hạnh thì chưa dám đủ để đảm nhiệm cương vị cao mà chư tôn đức suy tôn. Song vì là việc Tăng sai nên gượng để tiếp nhận”.

Từ khi lên cương vị Pháp chủ, Ngài cũng không có thay đổi gì, đặc biệt là trong nếp sống cũng như là trong các sinh hoạt của Ngài. Sinh hoạt của Ngài từ nơi phòng xá ở cũng vậy, thì trước thế nào, sau cũng vẫn cứ y như vậy. Như chúng ta đã thấy, cho đến khi Ngài đi hầu Phật, hầu Tổ, phòng xá cũng vẫn thế thôi, không có thay đổi. Ở Ngài, đối với chính mình, Ngài luôn toát lên đức tính kiệm đức, còn đối với với mọi người thì ngài rất là niềm nở, yêu thương và phóng khoáng. Ví dụ như thấy các sư có khó khăn, thiếu hụt gì thì Ngài có chút nào từ Phật tử cúng dường, là Ngài đều mang ra đưa cho hết.
Hay chúng ta vẫn thấy, dù ở ngôi vị Pháp chủ hay không, Ngài vẫn duy chỉ đi đôi guốc mộc, một loại dép của các cụ ta ngày xưa thường sử dụng. Sau này, do phương tiện tùy duyên theo các cuộc họp trang nghiêm của Giáo hội mà Ngài mới thay đôi dép, nhưng đó cũng chỉ là đôi dép rất bình thường. Đôi dép ấy có 3 quai ngang vắt qua, có lần một quai dưới cùng của một bên dép bị đứt, Ngài cắt phần quai bị đứt đi và vẫn xỏ mang tiếp như vậy mà thôi. Đó là đức hạnh kiệm đức mà chúng đệ tử chúng tôi được hầu cận Ngài, nhìn thấy được, cảm nhận được và nỗ lực noi theo.
Thượng tọa có thể chia sẻ thêm về hình ảnh căn phòng, nơi Đức Pháp chủ lưu trú cho đến khi viên tịch?
- Như đã chia sẻ, từ khi Ngài là một vị Tăng bình thường cho đến khi Ngài trở thành Đức Pháp chủ của GHPGVN, phòng xá của Ngài không có gì thay đổi. Chẳng hạn như cái giường, rồi những cái chỗ Ngài ngồi nghỉ, hay cái bàn… Ngài vẫn sử dụng như vậy, không thay đổi mới gì.
Ngày xưa, chúng ta hay có cái bàn máy khâu đạp bằng chân. Dạo ấy có một Phật tử, thấy cái bàn của Ngài đã yếu đi, mới cúng dường cho Ngài cái bàn máy khâu ấy, Ngài nhận về làm cái bàn sinh hoạt, làm việc của mình. Về sau, có người cúng dường bức tượng Đức Quan Âm, Ngài lấy chiếc bàn máy khâu ấy ra, cung kính kê pho tượng, đặt trước cửa nhà Tổ.

Đức Pháp chủ ngoài đời sống tinh thần giản dị nếp sống thiền môn thanh cao, Ngài còn là một người dịch kinh, nghiên cứu và có nhiều tác phẩm đã được ấn hành. Thượng tọa có thể nói rõ hơn về công tác in ấn và hoằng pháp của Đức Pháp chủ được tiến hành như thế nào. Ngài đã làm công việc đó mỗi ngày và xuyên suốt như thế nào?
- Khi mà Đức Pháp chủ tham gia công tác trong Ban Hiệu đính phiên dịch, có những tác phẩm như là Từ điển Phật học, hay trong Bộ Đại tạng Luật, thì Ngài là thành viên để duyệt lại.
Đối với công tác phiên dịch, như tôi đã chia sẻ, Ngài thường thực hiện vào khoảng thời gian thanh vắng, khi chúng tôi đều đã an giấc, tầm 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng. Với đức tính tự lập và kiệm đức, Ngài hầu như không phiền đến chúng đệ tử, hay ngay cả khi ở ngôi vị Pháp chủ, Ngài cũng tự tay cầm bút viết bản thảo chứ không cậy nhờ gì đến hàng thị giả. Sau này, những bản thảo, hiệu đình viết tay của Ngài cũng đều được gửi lên Trung ương Giáo hội để chư tôn đức tiến hành chỉnh sửa, tu bổ, bổ sung và in ấn.
Nói về việc phiên dịch kinh điển thì một trong những đệ tử là giới tử học đồ, được Ngài hết mực tin cậy về trình độ và cả đạo hạnh, đó là Thượng tọa Thích Tiến Đạt - trụ trì chùa Đại Từ Ân trên Đan Phượng. Thượng tọa cũng có công lao lớn trong việc hiệu chỉnh lại các tác phẩm để in ấn sau này để cúng dường ấn tống.
Ngoài ra thì còn có những vị môn đồ là Tăng sĩ, tu sĩ nào phụ giúp Ngài trong công tác phiên dịch không thưa Thượng tọa?
- Có một vị nữa, đó là Thượng tọa Thích Nguyên Quang. Thầy Nguyên Quang cũng là người gần gũi, có những sự hỗ trợ cũng như là thị giả hầu Ngài những việc phiên dịch ấy. Hiện Thượng tọa đang lưu trú tại Hưng Yên.

Đến bây giờ những công trình của Đức Pháp chủ đã được in ấn hoàn thiện hết chưa, hay vẫn còn đang tiếp tục, thưa Thượng tọa?
- Vừa rồi có lễ Đại tường của Đức Pháp chủ, cũng đồng thời biên tập cuốn Đệ tam Pháp chủ toàn tập, tương đối đầy đủ, với sự ấn tống của cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Trong việc in ấn có chỗ Thượng tọa Thích Thanh Phong cùng với chùa Long Hưng và đội ngũ phiên dịch, in ấn của chùa Long Hưng, cũng có công lao đóng góp rất lớn về cả kinh phí lẫn trí lực cho việc in ấn, biên tập này.
Ngoài ra thì chúng con được biết, trong Phật sự biên dịch in ấn sách của Đức Pháp chủ còn có cái sự yểm trợ cúng dường của nhiều Phật tử, trong đó có cư sĩ Từ Vân - Phạm Nhật Vũ. Xin Thượng tọa nói thêm về những việc làm mang lại lạc này của hàng cư sĩ, thưa Thượng tọa?
- Chú Từ Vân cũng là một Phật tử, đệ tử tại gia của cụ Tổ, chú cũng đã có công lao rất lớn và được cụ Tổ hết sức trân trọng và quý mến trước đức cúng dường, hộ trì Tam bảo của chú. Không những trong cộng tác in ấn, chú còn sẵn lòng đóng góp ở nhiều mặt khác để hỗ trợ, mang lại lợi ích cho đạo pháp.
Ngoài ra, chú Từ Vân còn là người trợ duyên rất nhiều đối với Tổ đình Viên Minh, vì lúc đó cụ Tổ trước nay vốn là người không bao giờ kêu gọi đóng góp cho việc tu bổ xây dựng chùa, nhưng lúc đó chú Từ Vân đã xin cụ Tổ được phát tâm cúng dường. Được Ngài chấp thuận, chú cứ thế âm thầm, miệt mài làm theo đúng ý nguyện của cụ Tổ.
Như vậy, đó là một trong những người đệ tử tại gia hộ trì Phật pháp với tâm lượng lớn nhất bấy giờ, nhất tâm cúng dường, nhất tâm trợ duyên. Nhờ đó mà tất cả những vấn đề về kinh phí hay các thứ, cụ Tổ hoàn toàn không phải suy tư, lo lắng gì về quá trình tu bổ của Tổ đình Viên Minh. Về sau, khi cụ tổ có lại một chút kinh phí từ sự cúng dường của thập phương, Ngài cũng sai dặn chúng tôi giao hết lại cho chú Từ Vân. Tuy khoảng kinh phí này chỉ là một phần vô cùng nhỏ nhoi so với những gì chú đã phát tâm cúng dường nơi Tổ đình Viên Minh, nhưng cũng phần nào thể hiện được sự tin tưởng và tinh thần tri ân báo ân của cụ Tổ đối với chú, người đã dành toàn bộ tâm lực hộ trì Tam bảo.

Tấm lòng của chú Từ Vân còn vững vàng cho đến hôm nay, dẫu cụ Tổ đã theo hầu Phật. Trước đó, chú từng bạch với Đức Pháp chủ rằng, dẫu sau này đời trụ trì nào tiếp nối ngôi Tổ đình, chú vẫn sẽ tiếp tục hộ trì chốn Tổ Viên Minh. Chính vì thế cho nên trong lịch sử của chùa, cụ Tổ có dành cả một đoạn ghi nhận công lao hộ trì Tam bảo của chú Từ Vân.
Ngay bản thân chúng tôi, đặc biệt là tôi, người trực tiếp sinh hoạt tu tập nơi Tổ đình và hầu cận cụ Tổ, cũng rất trân trọng, kính quý trước gương hạnh của chú Từ Vân. Chú như một vị Cấp-cô-độc thời Đức Phật vậy.
Thượng tọa hiện là người tiếp quản, trông coi ngôi chốn Tổ Viên Minh, vậy trong vai trò là người tiếp quản đối với một sự nghiệp ở nơi chốn Tổ đầy tính lịch sử và lớn lao như vậy, Thượng tọa có tâm nguyện gì để làm việc đó như thế nào thì mới tiếp nhận trông coi không thưa Thượng tọa?
- Việc tiếp nhận này, như tôi chia sẻ, cụ Tổ hoàn toàn theo hạnh tùy duyên, nên Ngài không hề có di chúc chỉ định bất cứ một vị đệ tử nào tiếp quản. Như vậy, ai có duyên thì người đó tiếp tục cư trú và duy trì sinh hoạt tu tập nơi chốn Tổ. Chính vì vậy, chúng tôi, những người hầu cận, trực tiếp sinh sống và tu tập tại đây, với sự sinh hoạt của hàng Phật tử trải dài nhiều thập kỷ, đến nay tiếp tục chấp tác nơi chốn Tổ, duy trì sự nghiệp noi theo gương hạnh của chư Tổ, Thầy mà dốc lòng tu học, tìm đường giải thoát khổ đau, đồng thời hướng hóa cho bà con Phật tử hòng trợ duyên cho bà con đi đúng chánh pháp.
Xin Thượng tọa nói thêm về một số Phật sự nổi bật tại nơi chốn Tổ Viên Minh những năm trở lại đây.
- Từ nhiều năm nay, ở chốn Tổ Viên Minh vẫn luôn duy trì trường hạ cho Tăng Ni trên địa bàn quy ngưỡng về tu tập trong 3 tháng an cư. Ngoài ra, trong những ngày Rằm và mùng Một, cùng với khóa lễ, chúng tôi đều cố gắng lồng ghép những thời pháp thoại, hướng dẫn và chia sẻ cùng bà con Phật tử, giúp mọi người hiểu thêm về chánh pháp, về chân lý mà Đức Phật đã đạt đến, đó là chân lý giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại, từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha.
Vâng! Kính cảm ơn Thượng tọa đã dành cho cuộc trò chuyện này!
>> Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Trăn trở của Đức Pháp chủ (Kỳ 4)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn


Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Đức Đệ tam Pháp chủ và giai thoại “Cỗ Tết nhà chùa” (Kỳ 3)
Cội tùng Phật giáo
Những ngày giáp Tết Ất Tỵ 2025, tôi đến chùa Đại Từ Ân, được Thượng toạ Thích Tiến Đạt - Phó Viện trưởng Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội kể về những năm tháng theo học Hoà thượng Thích Phổ Tuệ, với những hồi ức rất sâu sắc và xúc động.

Cội tùng Phật giáo Việt Nam: Đèn thiền rạng rỡ Phật gia (Kỳ 2)
Cội tùng Phật giáo
“Suốt đời tôi chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Tôi tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội, thế rồi các vị trong Giáo hội đưa tôi lên ngôi Pháp chủ. Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ… Xin các vị đừng gọi tôi là Pháp chủ mà hãy cứ nhìn tôi như một lão tăng thanh bần sống trong ngôi chùa làng là tôi mãn nguyện”.
Xem thêm