Con đang lạy Phật

Một sáng Chủ nhật mùa hè, tôi đang tưới cây thì “Nhóc”, biệt hiệu thân thương do ông bà đặt, bốn tuổi, ở kế bên, chạy sang nói:

- Ông thầy ơi, hôm nay cho con đi tắm.

- Ừ, đợi ông thầy tưới cây và ăn sáng xong thì chở con đi.

Sau khi thầy trò cùng dùng bánh mì sữa cho bữa điểm tâm, tôi chở cháu lên căn nhà mới, còn trống trơn, cách khoảng bốn cây số, nơi có một hồ cá hình bán nguyệt, dài khoảng hai mét, rộng một mét, chưa nuôi cá nên cháu thường tha hồ đùa nghịch với nước đứng tới nách. Đến nơi, tôi dừng xe, vừa mở cửa cổng thì cháu chạy ngay lại mép hồ. Tôi quát: “Con không được nhảy xuống nước, đứng chơi ở đó, đợi ông thầy mở cửa rồi hãy tắm”. Và sau khi mở hết các cửa, tôi từ trên lầu quay xuống sân thì không thấy cháu đâu cả, bèn lớn tiếng gọi: “Nhóc ơi!... Nhóc ơi!...”. Nhìn xuống hồ không thấy cháu, chạy vòng ra phía sau nhà cũng không thấy cháu, chạy lên sân thượng cũng không thấy cháu; hãi nhất là sân thượng, vì chưa làm lan can, sợ cháu thấy rộng rãi, vui chạy nô đùa, lỡ trượt chân thì nguy to. Tôi, vừa ngạc nhiên, vừa bực mình, lầm bầm: “Thằng nhỏ!... Mới đó mà dọt lẹ đi hướng nào”. Rồi tôi lại cất tiếng gọi lớn: “Nhóc ơi!... Nhóc ơi!...”. Và, tôi vừa chạy xuống cầu thang lầu một thì thấy cháu từ căn phòng của tôi đi ra với nụ cười tươi rói. Tôi lại mắng:  

- Con làm gì trong đó?... Sao ông thầy gọi mà con không trả lời? 

- Con đang lạy Phật. 

- Phật ở đâu đây mà lạy? Tôi nhướng mắt, hỏi.

- Đó, cháu đưa tay chỉ bản lịch 40x60cm, bằng thiếc, màu đỏ tươi, không dán lịch, có in hình ba ông Phước-Lộc-Thọ trông rất đẹp, treo trên khung cửa sổ.

Con đang lạy Phật 1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Tôi ngước mắt nhìn lên, và thấy ba nhân cách biểu tượng cho phúc đức, tài lộc và thọ mạng trên bản lịch kia đang mỉm cười với cháu. Thương quá! Tôi ngồi xuống, ôm hôn đầu cháu, và nói: “Con lạy Phật ngoan lắm!”. Sau đó tôi bế cháu xuống lầu, vừa đi vừa thầm nghĩ: “Mới lên bốn tuổi mà đã có ý thức tự giác, thâm tín Tam bảo, rằng khi đang lạy Phật thì thân khẩu ý phải thanh tịnh tuyệt đối”. Chính vì thế mà cháu không dám lên tiếng đáp lời, dù cho giọng điệu tôi có phần gay gắt. Ai bảo trẻ con chỉ biết ăn chơi? Thảo nào Nho gia có câu: “Mạc đạo xà vô giác, thành long dã vị tri” (Chớ bảo rắn không sừng, thành rồng chưa biết đó).

 Bấy giờ tôi lại sực nhớ đến hình ảnh chú điệu Nhất ở chùa Giác Hải, Vạn Ninh, Khánh Hòa năm xưa. Hễ mỗi khi bổn sư đi vắng thì y như rằng sáng hôm đó chú làm hương đăng lâu hơn, kỹ hơn, và có khi bỏ điểm tâm. Chú hăng hái bê tất cả kinh sách và các loại pháp khí trên bệ Phật vào lầu trống để chú được tự do leo lên các cấp lau chùi đài sen và tượng Phật, nhất là để ngắm nhìn Đức Thế Tôn cho thỏa thích. Một hôm, nhân lúc chấp tác, tôi đang quét rác trước sân chùa, nhìn vô chánh điện, thấy chú ngồi chum hum trên bệ thứ hai, đối diện với Đức Thế Tôn, hai tay chống cằm, lọn tóc đen dài, vắt qua vành tai phải, chốc chốc lại đong đưa, thì ra chú đang ngắm dung nhan Đức Thế Tôn và thả hồn theo niềm hỷ lạc. Thấy vậy, tôi ngừng quét, rón rén đi vòng qua mấy cây vú sữa, đứng nép mình sát tường lầu chuông quan sát, và tận mắt chứng kiến được cái gọi là giây phút “cảm ứng đạo giao nan tư nghì”. 

Chú mặc chiếc áo vạt hò lùng thùng, lem luốc, vì nhuộm bằng mực xạ, với hai ống quần sờn lai, được cột chặt bằng hai sợi dây chuối khô. Chú nhẹ nhàng, cẩn trọng, chí thành lau sạch pho tượng Thế Tôn từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, đoạn cúi đầu đảnh lễ trên hai bàn tay kết ấn trong lòng Ngài; sau đó chú lại ngồi chum hum, ngắm Phật một lát nữa, đoạn đưa tay xoa xoa hai đầu gối Ngài, hôn lên đó mấy cái rồi từ từ leo xuống. Tôi nhẹ nhàng rút lui, giả bộ không hay biết gì và vung chổi quét xèn xoẹt.

Ôi!... Cái giây phút sụp lạy tấm hình “Phước Lộc Thọ” và gập người hôn đầu gối Phật của hai cậu tiểu đồng kia quả thật là hy hữu, dễ gì có được trong một kiếp người bôn ba toan tính! 

Ngày nay, Phật tử khắp nơi trên thế giới có được hình tượng của Đức Thế Tôn để tôn thờ, lễ lạy là nhờ công đức chế tác của quốc vương Ưu Điền. Theo Đại tạng Cao Ly, tập 13, kinh Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức có ghi rằng một thời Thế Tôn an cư ba tháng trên cung trời Đao Lợi, thuyết pháp cho mẫu thân và hóa độ chư Thiên. Thấy tứ chúng Phật tử thương nhớ Đức Bổn Sư, đặc biệt là bản thân mình cũng sanh tâm bi lụy mỗi khi đến tinh xá mà không thấy Ngài, quốc vương Ưu Điền bèn truyền lệnh triệu tập tất cả các điêu khắc gia lừng danh trong nước đến hoàng cung hội thảo về việc chế tác tượng Đức Thế Tôn. Mọi người tuân lệnh nhưng cứ ngại rằng khó mà tạc đúng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Ngài. Cuối cùng quốc vương cả quyết: “Các khanh biết đấy, khát nước thì uống, đã khát thì thôi, hà tất phải uống hết sông hết suối. Các khanh cứ thành tâm thiện chí mà làm, được chừng nào hay chừng đó”. Và thế là hình tượng Đức Thế Tôn được chế tác bằng gỗ chiên đàn được phụng thờ từ đó. 

Một hôm, để xác tín công đức tạo tượng Phật cho quần chúng biết, Đế Thích đảnh lễ Thế Tôn, thưa rằng: 

- Kính bạch Thế Tôn, chế tác hình tượng Thế Tôn có phước đức gì chăng?

- Dĩ nhiên là có. Những ai tạo tượng chư Phật sẽ được phước đức vô lượng vô biên. 

“Ngày xưa, Thế Tôn tiếp lời, con của Tỳ sa môn tạc tượng Bồ tát mà được tái sanh làm vua. Ông Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp, Dà-da-ca-diếp, Na-đề-ca-diếp, tất cả đều do kiếp trước tu sửa điện Phật nên kiếp này gặp Ta, tu hành mau thành chánh quả. Ông Kiều-phạm-ba-đề kiếp trước mang thân trâu nước, đi tìm cỏ vòng quanh tinh xá, gặp Phật vui mừng, tỏ vẻ cung kính nên được thoát kiếp mục súc, nay được làm người, theo Ta tu hành, và tất nhiên là sớm được viên thành đạo nghiệp. A-nậu-lâu-đà cúng một ngọn đèn trước tượng Phật; Tỳ kheo Nan-đà dùng nước chiên đàn tắm tượng Phật, nên kiếp này cả hai có được ba mươi tướng tốt. Còn Na-dà-ba-la lấy chút huỳnh đơn vẽ một tượng Phật, tỏ lòng cung kính mà thoát ly nghèo khổ, hưởng phước giàu sang phú quý cho đến ngày đạo quả viên thành. Tóm lại, những ai tô vẽ, điêu khắc, khuôn đúc hình tượng chư Phật và Bồ tát thì sẽ tiêu trừ các tội như ngũ nghịch, thập ác, lạm dụng của thường trụ, hủy báng kinh điển Đại thừa v.v... và nhứt định sẽ được hưởng phước nhơn thiên cho đến lúc viên thành chánh giác như quốc vương Ưu Điền được Thế Tôn thọ ký vậy”.

Công đức tạc tượng chư Phật và Bồ tát được Thế Tôn xác quyết là thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn, cho nên khối ngọc thạch khổng lồ phát hiện tại Canada kia đã được mặc nhiên chế tác thành hình tượng của Đức Thích Ca Mâu Ni, biểu tượng cho nền hòa bình thế giới. Và vinh quang thay, Việt Nam là nước đầu tiên được hân hạnh cung đón, chiêm ngưỡng, và lễ bái biểu tượng tâm linh kỳ diệu này. Đúng là: 

Báo thân Phật tổ lộng ánh vàng

Uy đức vang lừng khắp thế gian

Mát nụ cười tươi - thiên đế phục

Bao dung ánh mắt - quỷ vương hàng.b kk.


gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Chùa Kim Sơn (Đà Nẵng), chùa Phước Lộc (Huế) cứu trợ đồng bào bị lũ lụt tại Đăk Lăk

Phật pháp và cuộc sống 08:22 26/11/2025

Trận lụt lịch sử tại các tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk, Khánh Hòa đã gây ra nhiều tang thương cho bà con các vùng trũng thấp. Hơn 100 người chết và mất tích. Nước lũ đã nhấn chìm chia cắt nhiều làng thôn, tài sản hoa màu trôi theo dòng nước lũ. Thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng.

Cúng dường đúng Chánh pháp mới có phước

Phật pháp và cuộc sống 15:05 25/11/2025

Trong nghi lễ cúng dường theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, luôn nhấn mạnh rằng: “Thực phẩm này chúng con làm hợp theo lẽ đạo, được cũng hợp theo lẽ đạo”.

Man mác lời ru

Phật pháp và cuộc sống 09:36 25/11/2025

Từ bao đời nay, người phụ nữ Việt Nam khi được làm mẹ đều biết ru con. Thông thường những lời ru là những bài dân ca theo thể thức “lục bát” được diễn theo lối hát-kể nhẹ nhàng về âm điệu nhưng sâu sắc về nội dung.

Xem thêm