Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 13/10/2015, 08:49 AM

Duy Tâm Quyết

Nói đến chữ tâm chẳng phải chân, vọng, hữu, vô có thể phân biệt được; chẳng phải văn tự. Lời nói có thể diễn tả được. Nhưng các bậc Thánh ca ngợi, các Hiền triết giải thích, ngàn lối khác nhau, chỉ là tùy theo đương cơ mà giả lập phương tiện, cuối cùng đều quy về một pháp mà thôi.

Nên kinh Bát Nhã nói Bất Nhị, Pháp Hoa nói Nhất thừa, Tư Ích nói Bình đẳng Như như, Hoa nghiêm nói Thuần Chơn pháp giới, Viên Giác kiến lập tất cả, Lăng Nghiêm bao gồm Mười phương, Đại Tập Nhiễm Tịnh dung thông, Bảo Tích Căn trần hòa hợp, Niết Bàn An nơi Bí tạng, Tịnh Danh Đạo tràng khắp nơi… tất cả tống nhiếp bao gồm, tỏ hết sự và lý chẳng có thiếu sót. Cho nên một pháp ngàn tên, tùy duyên lập hiệu, người học đạo chớ nên mê lầm việc tùy sự lập danh, kẹt vào lời nói phương tiện mà cho chúng sinh là giả. 

Chư Phật là thật! Nếu ngộ được nhất pháp thì vạn pháp viên thông, sự mắc kẹt của nhiều kiếp ngay đó tan rã, vô biên diệu nghĩa nhất thời đều không, thấu triệt nguồn gốc của tâm pháp, rõ hết phương tiện của chư phật, chẳng tốn một chút công lực, chẳng dời một bước mà du lịch hằng sa thế giới, không một Phật sát đạo tràng nào mà chẳng đến, không một pháp hội nào mà chẳng dự, không một tướng nào mà chẳng phải thật tướng, không một nhân nào mà chẳng phải viên nhân (cái nhân tròn đầy bao gồm tất cả tâm pháp), hằng sa Như Lai rõ ràng ngay trước mắt, mười phương phật pháp sáng tỏ trong bàn tay, núi sông cao thấp cùng chuyển căn bản pháp luân, hàm linh lớn nhỏ phổ hiện sắc thân Tam muội. Ở một chỗ mà mười phương cùng hiện giảng một âm mà pháp giới cùng nghe, nói huyền nói diệu mà chẳng hoại pháp thế gian, muôn ngàn biến hóa mà chưa dời chỗ thật tế. Cùng tam thế chư phật nhất thời hành đạo, với mười loài chúng sinh đồng chứng Niết Bàn, đánh trống Phật pháp nơi cung ma, sấm xét Phật pháp nơi xứ tà, đi ngược mà tự thuận, nơi cương mà tự nhu, lên cao mà chẳng nguy, nước đầy mà chẳng tràn, ở yên trên đất tuyệt học, sâu vào nguồn gốc vô vi, nhập cửa huyền của chúng diệu, dạo cảnh giới của thật tướng.

Chẳng một pháp vốn có, chẳng một pháp mới thành, diệt trung biên, tuyệt tiền hậu, ấn đồng dị (đồng và dị cùng trong một pháp ấn), nhất khứ lai. Muôn cảnh cùng quán, nhất tâm bình đẳng, tiếng Phật thường nghe, huệ quang thường chiếu, đây là Đại Tịch Tam Muội Kim Cang định môn Thánh phàm bằng nhau, cổ kim đều vậy. Như tính ướt của giọt nước với biển cả vốn đồng, sự dung nạp của cái lỗ nhỏ bằng hạt cải so với hư không chẳng khác, kẻ tin được  thì công siêu nhiều kiếp, kẻ ngộ được thì rõ trong sát na.
 
Cái pháp môn của nhất tâm này thật là đại đạo chẳng có phương sở, tu tập bụi trần mà chẳng phải hợp, tan rã quốc độ mà chẳng phải phân (phân tán), hòa quang mà bất quần (chẳng phải nhiều chúng hợp lại), đồng trần mà chẳng nhiễm, siêu xuất mà chẳng lìa, dung hợp mà chẳng tụ, nuôi dưỡng Thánh phàm mà chẳng có hình tướng thật chất để thấy, kiến tạo pháp giới mà chẳng có tên họ để gọi, che khắp cỏ cây, phủ khắp kim cổ, cùng khắp hư không pháp giới, bầu trời chẳng thể che lấp bản thể , thường chiếu thường hiện, địa ngục chẳng thể ấn dấu ánh sáng, vô trụ  vô y, trần lao chẳng thể đổi cái tính, phi thuần phi tạp, muôn pháp chẳng thể dấu cái chơn, vắng lặng mà âm thanh khắp nơi, vô tướng mà hình tượng đầy trời, dung hợp lẫn nhau mà cảnh vật muôn ngàn sai biệt, hình tướng sum la chỉ là một, chẳng tụ chẳng chia, chẳng vì việc hỏng mà mất bản thể, cũng đồng cũng khác, tùy duyên mà chẳng cần giữ tính, tức tướng là tính nên chẳng ngại kiến lập; tức lý là sự nên chẳng ngại chơn thường. Dùng cái không của hữu đâu ngại đủ thứ sinh khởi; dùng cái động của tịnh, đâu ngại muôn cảnh tịch lặng, nói một thì lớn nhỏ khác nhau, nói khác thì cao thấp đều bằng, nói có thì chơn lý tịch diệt, nói không thì sự dụng chẳng bỏ, dù sinh mà thường tịch, tướng thế gian trống rỗng, dù động mà thường trụ, muôn pháp chẳng dời, dù ẩn mà thường khởi, thích ứng tùy cơ. Chẳng giả mà ảo tưởng hòa hợp, chẳng thật mà chơn tính trạm nhiên, chẳng thành mà đủ loại cùng sáng, chẳng hoại mà các duyên tự diệt. Cảnh dù hiện mà chẳng có tính hiện, trí dù chiếu mà chẳng có công chiếu, tịch mà dụng chẳng khác, năng và sở chỉ một. Đồng như gương sáng mà vạn tượng chẳng giấu mình, tính như hư không mà tướng chẳng rời bản thể, làm tạng thường trụ, là cửa biến thông, trạm nhiên kiên cố mà thường tùy vật biến hóa, lăng xăng tạo tác mà chẳng động được chơn như, thân nam ẩn, thân nữ hiện, phương Đông nhập, phương Tây xuất, đang còn mà thường diệt, đang nắm mà thường buông, phổ biến mà ánh sáng chẳng động, khắp nơi mà một vật chẳng có, một hạt bụi gồm vô biên quốc độ, một niệm tưởng lập vô tận cổ kim. Tức tịnh thường nhiễm ở thật tướng mà chẳng phải thăng (cấp bậc cao), tức đục thường trong, vào lục đạo mà chẳng phải đọa.

Nhìn vào ngoài chẳng dư, nhìn vào trong chẳng thiếu, đầy mắt mà chẳng thấy đầy tai mà chẳng nghe, đầy lòng mà chẳng biết, đủ lượng mà chẳng hay, đã thành mà chẳng phải cũ, nay hiện mà chẳng phải mới, chẳng mài mà tự sáng tỏ, chẳng chùi mà tự trong sạch, chơn tính độc lập, diệu thể thường trụ, linh quang xán lạn, công đức đầy tràn.

Diệu dụng của hàm linh phổ hội, làm vua của muôn Pháp, Tam thừa và Ngũ tính (năm thứ chủng tính: tam thừa, ngoại đạo và bất định chủng tính) quy tụ, làm mẹ của ngàn Thánh, độc tôn độc quý, chẳng gì sánh bằng, là chơn pháp yếu, là thật đại đạo, tông tích nhiệm mầu chẳng định, tùy theo tính vật mà vuông tròn, diệu dụng thích ứng tự nhiên, tùy theo căn cơ mà ẩn hiện, cho nên gốc sinh ngọn mà ngọn tùy gốc, thể dụng lẫn nhau; chơn thành tục mà tục lập chơn, Thánh phàm cùng tỏ; chính ta giúp người mà người lại giúp ta chủ bạn cùng tham.

Chúng sinh thành phật mà phật độ chúng sinh, nhân quả rõ ràng. Cảnh chẳng tự tính mà người khác thành tự kỷ tâm chẳng tự tính mà tự kỷ thành người khác, lý chẳng thành tựu mà một tức nhiều sự chẳng thành tựu làm nhiều tức một, tướng dù giả mà âm thầm một thể, tính dù thật mà thường nơi vạn duyên. Dù hiển lộ mà tìm cầu rất khó, dù siêu tuyệt mà đại dụng chẳng ngại, hiện ra ảo tượng nơi một tính mà dung chơn (dung hợp chơn đế), Tịch diệt linh thiêng, nhờ sum la mà hiển tướng. Đế và Trí (Đế: Chơn đế, Tục đế, Trí: Quyền trí, Thật trí) phát minh lẫn nhau, nhiễm và tịnh huân tập lẫn nhau, tùy sức yếu mạnh mà chìm nổi vô thường, tùy duyên tụ tán mà nắm buông chẳng định, nhiếp nhau thì vi trần chẳng hiện, giúp nhau thì muôn cảnh đều sinh, đến như bóng trăng bỗng hiện trong nước, đi như đám mây bỗng tan trên trời, động tịnh vô ngại, trống rỗng thấu nhập, tương sinh tương khắc, linh thông khó lường, chẳng trong chẳng ngoài, diệu tính khắp nơi.

Biển trí mênh mông, dung nạp tất cả chẳng kẻ thiết sót, linh châu (tự tính) sáng tỏ, chiếu khắp mười phương chẳng từng mảy may ẩn giấu. như vàng thiệt tùy theo đồ dùng làm ra đủ thứ khuôn hình, muôn ngàn sai biệt mà chẳng ngại, như nước trong lặng nổi nhiều làn sóng, hiển tướng mà bản thể chẳng chút mất mát. Đều đúng đều sai, cũng tà cũng chính, chẳng có mà thị hiện có, mơ hồ như trong mộng, chẳng thành mà tựu như thành, thấm thoát như huyễn hóa. Tùy nguồn không mà sinh diệt, pháp pháp vô tri, theo biến ảo mà thịnh suy, duyên duyên tuyệt đối (đối đãi). Cho nên, đĩnh núi chót vót mà chẳng vực thẩm, biến rộng không đáy mà chẳng thâm sâu, tam độc, tứ đảo (điên đảo) mà chẳng phải phàm, bát giải lục thông mà chẳng phải Thánh, đồng ở đất chơn như tịch diệt, cùng vào cửa bất nhị vô sinh. Tạo tác trong đại giải thoát, trùng trùng vô tận hiển hiện trong bất tư nghì, mỗi mỗi khó tìm, đâu thể kiến lập thủy chung, chỉ định xứ sở ! Đâu cần sùng chơn chê vọng, chán dị ham đồng !

Lại muốn hoại thân thể huyễn hóa, muốn dứt ý thức chiêm bao mà chẳng biết mỗi niệm đều là Thích Ca ra đời, mỗi bước đều là Di Lặc hạ sinh, phân biệt là hiện cái tâm của Phổ Hiền, mọi cửa đều là cam lồ, mọi vị đều là đề hồ, thật chẳng ra ngoài vườn Bồ đề, thường ở nơi thế giới Liên Hoa Tạng. Chói rọi không vật nào chẳng soi thấu, rõ ràng sáng tỏ đầy mắt, khỏi nhờ biện tài diễn tả, chẳng cần thần thông hiển thị, động tịnh thường gặp, sáng tối chẳng lìa, chẳng phải xưa thạnh nay suy, đâu phải ngu chìm mà trí hiện !

Nói nín thường khế hợp, đầu đuôi thầm dung thông, Đạt Ma đâu cần đến Đông độ, bảy Phật đâu cần thị hiện trên đời ! Hễ tâm không thì trời đất hư tịch, tâm hữu thì quốc độ sum sê, niệm khởi thì sơn nhạc lay động, niệm lặng thì song ngòi yên tịnh, ứng cơ cao tột thì lời lời liễu nghĩa, trí huệ sáng tỏ thì niệm niệm hư huyền, căn khí lớn thì pháp pháp đầy đủ, độ lượng rộng thì trần trần vô tận, ý địa trong thì thế giới sạch, tâm thủy đục thì cảnh tượng tối, đề ra một mà bao gồm toàn bộ, khang trang bình đẳng, sẳn sàng cụ túc, chỉ ở nơi chính quán mà thôi.

Muôn pháp vốn do người tạo, chơn như tự đủ nhiều đức, vô niệm mà công đức chẳng có, vô tác diệu hạnh đều viên. Chẳng tạo mà thành, linh trí sẳn sàng, chẳng tìm tự đắc, diệu tính thiên chơn, mới biết lý trí viên dung, đại đạo chẳng ở bên ngoài, tuyệt một hạt bụi mà độc lập, có tướng nào để tung hoành ? Vì vậy, ngay nơi âm thanh tức là nghe, ngoài sự thấy chẳng có pháp khác (bản văn cũng là bản kiến, cùng khắp không gian và thời gian) sắc đẹp chẳng thể mê hoặc, âm điệu chẳng thể mê hoặc, như nước biển hội đủ mùi vị của ngàn sông, như núi Tu di nuốt hết sắc tướng của quần đảo, không một tên chẳng hoằng danh hiệu Như Lai, không một vật chẳng tỏ hình tướng của chư Phật, cây cối nhà cửa tự tỏ Diệu tướng vô biên, khỉ kêu chim hót đều nói Diệu âm bất nhị, si ái thành nguồn chơn giải thoát, tham sân tỏ đại dụng Bồ đề, vọng tưởng khởi mà Niết Bàn hiện, trần lao sinh mà Phật đạo thành. Từ bản thể làm nên mà Hóa thân, báo thân tịch lặng, tùy nhân duyên hiển hiện mà Phật pháp đầy đủ khắp nơi, thật là chỗ quy về của giáo pháp, linh ngộ của Thánh Hiền, thực tế của chúng sinh, căn bản của vạn vật, đại cương của chính pháp, bản ý của xuất thế, đường lối của Tam thừa, bến đò của Phật đạo, linh nguyên của Bát Nhã, quê nhà của Niết Bàn.

Bởi vì Diệu lý mầu nhiệm sâu xa, huyền chỉ hy hữu khó lường, kẻ cường huệ uổng nhọc tinh thần, kẻ si thiền chỉ có thể tự trói. Kỳ thật thì con đường của ngôn ngữ cắt tuyệt, ý thức phân biệt dứt bặt, tinh thần trong sạch, trí huệ tự nhiên, không hữu song dung, căn trần trống rỗng như nhìn thấu trời xanh, như ở dưới mặt trời chiếu sáng, không một pháp môn nào hiển hiện, không một chí lý nào chẳng rõ. Chẳng động tình thức, dưới ao sâu mà lượm nhầm thất bảo, chẳng phí tâm lực, trong nước đục mà tự được huyền châu, quán đại thiên thế giới ngay trước mắt, chỉ hằng sa quốc độ nơi bên cạnh, nắm chúng sinh trong bàn tay, ôm vạn vật ở trong lòng, chẳng tốn chút công, thành tựu Lăng Nghiêm đại định, chẳng nhìn một chữ, xem hết tất cả kinh điển, nghĩa của Tứ cú thông, đường của Bách phi tuyệt. Dọc xuyên tam tế, ngang thấu mười phương, duy nhất tổng trì (Tổng nhất thiết pháp, Trì nhất thiết nghĩa hiệu Đại Tự Tại).

Thần quang hiển hách, oai đức lừng lẫy, ngoại đạo kinh hồn, tà ma sợ hãi, phiền não tan rã, sinh tử bay mất, tình ái rửa sạch, ngạo mạn sụp đổ, thông thả vô ngại, đạm bạc rộng rãi, vô đắc vô cầu, khoáng đạt tự tại, cao rộng quá hư không, ánh sáng hơn nhật nguyệt, vậy thì Huyền trí và Thật trí đi đôi, Từ bi, Trí huệ song hành, cứu thế như huyễn, độ sinh đồng không, vào hữu mà chẳng trái vô, hành chơn mà chẳng ngại tục, như trời che đất chở, như nhật nguyệt cùng sáng, thị Thánh hiện phàm, xuất sinh nhập tử, đem thật tướng tâm ấn, dựng Đại pháp tràng tạo một ánh sáng mà cứu tế muôn loài, khiến tro lạnh bừng lên sức ấm, hạt giống cháy sống lại làm thuyền. Từ nơi biển khô, làm đạo sư cho kẻ lạc đường. Che và chiếu tự động, nắm buông tùy trí, dù vô tri mà muôn pháp viên thông, dù vô kiến mà tất cả rõ ràng. Chỉ cần khế hợp ý chỉ này thì bản thể vốn tự nhiên, như mùa xuân nẩy mầm, như đất sinh vạn vật, Thập thân bỗng hiện, Tứ trí đồng khởi, là Như ý tràng (cây lọng), là Thất bảo tụ, Pháp tài phong phú, lợi sinh chẳng cùng, nên gọi Vô Tận Tạng, hiệu rừng công đức, đâu thể có ánh nắng mà chẳng chiếu, có đèn đốt mà chẳng sáng!

Chớ nên dùng tâm có giới hạn mà sinh kiến giải có ngằn mé, đo lường rộng hẹp của hư không, xác định biên thùy của pháp giới, khiến cho tình thức phân biệt, chẳng siêu việt được cảnh trần, vọng tâm bừng dậy nơi đất chơn như, đánh lên làng sóng ý thức trong biển tịch diệt, hạn chế sự thấy trong ống dòm, trộm cấp ánh sáng nơi kẻ vách, vọng lập cái tri của năng sở, lầm khởi cái kiến giải của tốt xấu, đuổi theo lời nói văn tự để định đoạt Tông chỉ, cũng như con muỗi muốn bay theo đại bàng, đom đóm muốn so với mặt trời vậy !

Tự tính khởi dụng dung nạp mười phương hư không trong một lỗ chân lông, hiện muôn ức Phật sát trong một sát na, mỗi mỗi thân cùng khắp mỗi mỗi Phật sát, mỗi mỗi Phật sát bao gồm vô biên thân, rút nhiều kiếp trong khoảnh khắc, quăng quả đất ra ngoài vũ trụ, trong một lỗ chân lông phóng ra vô tận quang minh, trong một lời nói tỏ hết tất cả giáo pháp, ấy là bổn phận của chúng sinh, sức bằng với chư Phật, không một pháp nào mà chẳng phải vậy, hễ có tâm là sẳn sàng, chẳng nhờ sức của thần thông, chẳng do tu chứng mà được, đức lượng như như, tất cả đầy đủ, nếu bỏ biển mà nhận bọt, ý chí thấp kém mà tự khinh mình, cũng như cầm hạt châu như ý mà đi xin, có kho vàng lại nghèo khổ, cô phụ tính linh của chính mình, chôn vùi gia tài mà không biết xài !

– Người học đạo chẳng tin tự tâm hoặc muốn bỏ vọng mà giữ chơn, hoặc cho mình chẳng có phần mà cam chịu trần lao, hoặc nhận vọng làm chơn mà hành theo tà đạo, hoặc chấp phương tiện mà khổ tu tiện hạnh, hoặc chấp cao vị mà suy tôn cực Thánh, hoặc tích chứa công đức, hy vọng mãn ba A tăng kỳ kiếp để thành Phật, chẳng biết toàn thể hiện tiền, lại cầu mong cầu diệu ngộ, chẳng biết xưa nay vốn đầy đủ mà chẳng đợi sự thành công. Nếu chẳng nhập Viên thường ắt phải chịu luân hồi!

– Chỉ vì mê muội nơi đức tính, chẳng phân biệt được chơn tông, buông thả theo trần, bỏ gốc tìm ngọn, theo lưới ma của hữu vô, vào rừng tà của đồng dị, mổ xẻ chơn không, phân chia pháp tính, sinh diệt theo trần, hữu vô tùy cảnh, chấp đoạn mê thường, lấy duyên bỏ tính, vọng khởi tri giải, lầm lẫn tu hành.

– Hoặc hòa thần dưỡng khí mà chấp tự nhiên, hoặc cho khổ thân hủy hình là hành theo chí đạo, hoặc chấp lấy cái cột vô trước để dựng lên thành cảnh trước mắt, hoặc cầu tịnh lự mà đè nén vọng tâm, hoặc gọi tình diệt pháp để kết thành không, hoặc theo hình bóng của nhân duyên pháp trần mà ôm thành tướng, hoặc bỏ mất chơn chiếu của linh tâm, hoặc hủy hoại chính nhân của Phật pháp.

– Hoặc kết tụ tinh thần cắt tuyệt tâm thức, thọ báo thành loài vô tình, hoặc tĩnh tâm bặt sắc trụ quả nơi cõi trời tứ không, hoặc chấp thật có lạc vào thành huyễn hóa, hoặc chấp KHÔNG lại đồng như sừng thỏ, hoặc tuyệt kiến giải đọa vào nhà đen tối, hoặc lập chiếu soi trở thành chấp sở tri, hoặc nhân HỮU GIÁC là hình của chơn Phật hoặc nhận VÔ TRI như loài gỗ đá, hoặc chấp vọng bằng với quả cứu cánh, cũng như nhận đất làm bình, hoặc bỏ duyên để vào cửa giải thoát cũng như vạch sóng tìm nước.

– Hoặc đuổi theo ngoại cảnh, vọng tạo việc trong chiêm bao, hoặc trong giữ u nhàn ở yên nơi ngu si, hoặc chấp đồng cho vạn vật đều bằng nhau, hoặc chấp dị mỗi mỗi tự lập pháp giới, hoặc cam chịu ngu si cho chẳng có phân biệt làm đại đạo, hoặc ham không kiến (tri kiến chấp không) bài xích thiện ác cho là chơn tu, hoặc hiểu lầm tính bất tư nghì lọt vào ngoan không, hoặc cho diệu tính chơn thiện là thật có, hoặc trầm cơ tuyệt tưởng (cơ: linh động) đồng như cõi trời hữu lậu, hoặc giác quán tư duy đọa nơi tình lượng (tình thức suy lường), hoặc chẳng cứu xét vọng tính cho ấy là thời hỗn độn sơ khai của trời đất, hoặc mê muội nơi ảo thể lấy “tuyệt không” làm Tông chỉ.

– Hoặc nhận bóng làm chơn, hoặc lấy vọng để tìm thật, hoặc nhận tính kiến văn cho là loài hữu tình, hoặc chỉ cảnh huyễn hóa cho là loài vô tình, hoặc khởi ý trái với tịch tri, hoặc dứt niệm phế bỏ Phật dụng, hoặc mê tính công đức khởi tri kiến của tâm sắc, hoặc căn cứ lời “Tất cánh không” sinh tâm đoạn diệt, hoặc chấp chí lý liền bỏ trang nghiêm, hoặc mê tiệm thuyết (đốn tiệm tương đối) luôn luôn tạo tác, hoặc chiếu theo “Bản thể lìa duyên” kiến cố ngã chấp, hoặc tiêu diệt tất cả giữ lấy tự kỷ, hoặc quyết định “Người và pháp tự nhiên” thành ngoại đạo vô nhân, hoặc chấp cảnh và trí hòa hợp đọa vào cộng kiến, hoặc chấp tâm và cảnh lẫn lộn thành pháp năng sở, hoặc chấp sự phân biệt chơn tục bị buộc nơi ngu xuẩn của tri chướng.

– Hoặc giữ “nhất như bất biến” lọt vào thường kiến, hoặc thấy tứ tướng dời đổi chìm vào đoạn kiến, hoặc chấp vô tu lìa bỏ Thánh vị, hoặc nói có chứng trái ngược thiên chơn, hoặc đam mê y báo, chính báo, theo thế tục luân hồi; hoặc chán sinh tử, lạc mất chơn giải thoát; hoặc mê chấp chơn không, sùng nhân trước quả; hoặc mê muội thực tế, ham Phật ghét ma, hoặc chấp thuyết phương tiện tùy nghi, cho lời Phật Tổ là chơn.

– Hoặc bỏ mất thật tướng âm thanh, muốn lìa ngôn ngữ cầu nơi nín lặng; hoặc tuân theo giáo thừa, phá hoại định thể của tự tính; hoặc hoằng thiền quán, bài xích lời giải thích của kinh liễu nghĩa; hoặc vì tranh đoạt danh lợi, đặt ra lời kỳ lạ, bị chìm vào biển ý thức; hoặc muốn tịnh khiết tìm cầu huyền bí lại đọa vào thành Ngũ ấm; hoặc khởi tri giải thù thắng, móc thịt đắp ghẻ; hoặc trụ nơi bản tính trong sạch mà chấp thuốc thành bệnh; hoặc theo văn tìm nghĩa, thích ăn đàm dãi của người khác.

– Hoặc cố giữ thanh nhàn, ngồi nơi pháp trần; hoặc sinh tâm có sở đắc để bàn luận Đại thừa vô tướng; hoặc dùng tư tưởng suy lường để tìm huyền chỉ bên ngoài vật; hoặc phế bỏ ngôn thuyết sinh kiến giải tịnh khẩu; hoặc chấp sự giải thích kỹ càng cho ngón tay là mặt trăng; hoặc nhận lầm sự dụng làm nguồn gốc của sinh diệt; hoặc chuyên ghi nhớ, trụ trong thức tưởng; hoặc hay sắp đặt, đánh mất bản tính của viên giác; hoặc phóng túng đi lầm cửa đạo, hoặc muốn thân tâm tinh tấn kẹt nơi hữu vi.

– Hoặc chấp chơn tính vô vật, bị trói nơi trí huệ; hoặc siêng tu niệm, đánh nơi chính thọ (chínhđịnh); hoặc bắt chước “tự tại vô ngại” bỏ sự tu hành; hoặc ỷ “Bản tính vốn không”, tùy thuận tập khí; hoặc chấp “thật có ràng buộc” nên muốn dứt trừ.

– Đối với Phật pháp, kẻ quý trọng thì sinh trưởng pháp ái, kẻ khinh mạn thì hủy hoại nhân Phật; hoặc cầu tiến mà trái với bản tâm; hoặc lui sụt trở thành buông lung; hoặc thể và dụng khác nhau, trái với phật thừa; hoặc trầm không trệ tịch, làm mất bản tính của đại bi; hoặc bặt duyên chán giả, vi phạm pháp môn sẵn đủ; hoặc mê muội chơn ngã vốn không, mà chấp ngã kiến; hoặc cố chấp phật pháp, mê lầm hiện lượng (pháp ngã vốn không); hoặc có giải chẳng có tín, mống lên tà kiến; hoặc có tín chẳng có giải, sinh trưởng vô minh.

– Hoặc cho người đúng pháp sai; hoặc cho cảnh sâu trí cạn; hoặc chấp lấy nên mê pháp tính; hoặc xả bỏ thành trái chơn như; hoặc chấp tính lìa nên nghịch với nhân; hoặc chấp thường trụ nên trái với quả; hoặc chấp cái sai phỉ báng cái thật; hoặc chấp cái đúng phá hoại sự tùy nghi; hoặc chán vô minh, xa trái bất động trí môn; hoặc ghét vọng cảnh, tổn thương pháp tính tam muội; hoặc chấp cái lý đồng, hành tăng thường mạn; hoặc bác cái tướng dị, hoại cửa phương tiện.

– Hoặc chấp Bồ đề là thật, phỉ báng Chính pháp luân; hoặc chấp chúng sinh là giả; hủy hoại chơn Phật thể; hoặc chấp Thật trí mà bỏ Quyền trí; hoặc chấp sự tùy cơ giáo hóa mà mê muội chính tông; hoặc kẹt trên lý, lọt vô hầm vô vi; hoặc chấp nơi sự, nhảy vào lưới hư huyễn; hoặc xóa bỏ dấu tích đối đãi, trái ngược với sự song chiếu (thể và dụng đi đôi); hoặc chấp nơi trung đạo, làm mất bản ý phương tiện; hoặc có Định mà chẳng Huệ, làm mầm đạo bị cháy; hoặc cố chấp hạnh nguyện, thành chôn vùi giống Phật; hoặc tu hạnh vô tác mà trở thành Bồ đề hữu vi; hoặc chấp cái tâm vô trước nên thành Bát nhã tương tự (chẳng phải Bát nhã chân thật); hoặc ham tướng tịnh mà thành cáu bẩn của thật  tính; hoặc trụ nơi chính vị (ngôi pháp) làm mất cái tự tính vốn Không; hoặc kiến lập thiền quán vô tướng làm chướng ngại chơn như.

– Hoặc sinh khởi tâm liễu tri, thành phản bội Pháp tính; hoặc chấp chơn thuyên (lời giải thích kỹ càng) sinh ngữ kiến (tà kiến chấp ngôn ngữ), như uống cam lồ mà chết sớm; hoặc ôm chí lý tròn đầy, khởi tâm chấp trước, như uống đề hồ mà trúng độc vậy.

Một trăm hai mươi thứ tà tông kiến giải kể trên, đều là mê trái Tông chỉ, lầm mất bản chơn, cũng như dụi mắt nên thấy hoa đóm trên không; leo cây để tìm cá. Mùi đắng chẳng làm được giống ngọt; đất cát đâu thể nấu thành cơm ! Ấy đều vì chẳng biết Pháp tính dung thông, nên mê lầm lời phương tiện của chư Phật, Chư Tổ, chìm nơi kiến chấp, tự chướng bản tâm, chẳng nhập Trung đạo, bò lết trên đường thăng trầm, ràng buộc trong lòng thủ xả, nơi vô tâm mà muốn đoạn trừ, nơi vô sự mà muốn lìa bỏ, lấy pháp không làm thành cảnh si ái, đem chơn trí lập thành tư tưởng chướng ngại, luôn luôn theo đuổi bát phong, khó ra khỏi lưới chấp trước. thật chẳng biết cái lý sinh tử âm thầm khế hợp với đạo, vọng vốn là Bồ đề, xưa nay dung thông giác tính, sáng thường trụ nơi tối, nước chẳng lìa băng, diệu dụng vô tận linh trí thường tồn.

Sao lại dứt niệm tưởng để cầu tịch lặng diệt phiền não để chứng chơn như ? Vọng tu vọng tập, tự khó tự dễ mà không biết bản tính viên giác vốn chẳng bí mật, kho tàng Như Lai thật chẳng che giấu!

Nên biết, lý của Viên thường chẳng thiếu, chỉ vì lòng tín giải không đủ, cũng như thấy Bồ Tát đứng trên mũi kim, thấy chỉ mành treo núi Tu Di, chỉ biết tán thán hy hữu kỳ lạ mà chẳng biết tại sao ! Như trong kinh Pháp Hoa, con đi xin ăn mà chẳng biết cha (Tự tính) là triệu phú, chẳng dám thừa kế gia tài của mình, suốt ngày tìm cầu bên ngoài mà chẳng tự tỉnh ngộ, bỏ vàng lượm sỏi, cam chịu nghèo khổ. Cho nên, chư Phật thương tiếc, chư Tổ xót xa, đều nói chúng sinh chẳng chịu đi thẳng đến chỗ thực tế, lạc mất bản tâm, chỉ theo vọng thức thăng trầm đuổi theo cảnh trần so đo chấp trước, chẳng biết muôn pháp vô thể, tất cả vô danh, tùy ý hiện hình, theo ngôn lập hiệu, ý tùy tưởng sinh, ngôn theo niệm khởi, kỳ thật, tưởng và niệm đều không, gốc ngọn phi hữu. Cho nên, tam giới vô vật, vạn hữu trống rỗng, tà chính đồng nhau, thiện ác không khác. Chúng sinh vì ôm chặt tư tưởng chấp thật, bỏ hết đại nghĩa của Phật pháp, chẳng trở về được Tự tính, lại ở nơi vô tâm mà phân chia đồng dị, ở trong nhất thể và vọng lập ly hợp, vừa lập mình và người thì liền sinh sự thuận nghịch, dấy lên đầu mối đấu tranh, kết thành nghiệp quả mê hoặc, dệt thành lưới thị phi, tạo thành cái lòng của yêu ghét, nhìn bóng tượng trong gương phân biệt xấu đẹp, nghe tiếng dội trong hang mống khởi buồn vui, trách hạnh kiểm của người huyễn hóa, mà chẳng biết năng sở song tịch, lý sự đều không. Đã tạo cái nhân mê hoặc thì phải chịu cái quả huyễn hóa.

Muốn rõ diệu lý nên truy cứu tự tâm, một niệm chứng ngộ liền tiêu hàng sa ác nghiệp, một đèn đốt lên liền phá ngàn năm đen tối, muôn cảnh đối diện mà chẳng lập danh tướng, mê ngộ chẳng còn, trạm nhiên trong sạch, thân tâm thấy nghe tùy duyên dưỡng tính, phóng khoáng tung hoành,tiêu dao tự tại, sự tiếp xúc hằng ngày đều là giải thoát bất tư nghì, cũng là Đạo tràng đại tịch diệt.

Nay khuyên các vị hậu hiền nên đi theo đường lối này, dẫu cho nghe mà chẳng tin, cũng được gieo trồng giống Phật; dẫu cho học mà chưa thành cũng được phước báo trời người, huống là chứng quả thành Phật, chẳng có gì bằng !

Những lời trên đây đều có ghi đủ trong kinh điển của Phật, chẳng phải khi không mà đặt ra, xin học giả hãy tự xem xét kỹ!

Thiền sư Thích Duy Lực (Trích dịch từ Đại Tạng kinh)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước

Nghiên cứu 08:45 25/11/2024

Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần

Nghiên cứu 09:40 15/11/2024

Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo

Nghiên cứu 09:45 19/10/2024

Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.

Xem thêm