Giáo dục tự hào dân tộc dưới góc nhìn Phật học
Năm trước tôi có đọc văn bản về: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Trong đó: đổi mới sáng tạo là khâu quan trọng cần phát huy tính hiệu quả của nó mới đủ sức hòa nhập vào Kỷ nguyên vươn mình của đất nước trên phương châm: tinh – gọn – mạnh.

Còn nhớ lời nói sau cùng trong trong diễn văn Bế mạc Đại hội Đổi mới VI của Đảng tháng 12 – 1986 tại Hà Nội, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói rằng: muốn Trời giúp thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Phật giáo trên tinh thần dấn thân - nhập thế đồng hành được trong hai thế thịnh – suy của dân tộc Việt chính là nhờ tư tưởng: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự..” của Tuệ Trung thượng sĩ (Nghĩa rộng: hãy dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu mình để thân an tâm yên ngõ hầu tùy duyên đi vào lối Trung đạo vốn bất lụy & bất lạc). Cụ thể, Phật giáo gần gũi được dân Việt và giúp ích dân tộc tôi cân bằng được đời sống tâm linh chính là bằng phương tiện thù thắng là thiền Vipassana từ Đức Thích Ca mà tôi đã cụ thể hóa bằng thiền Song thân trong từng hơi thở như sau:
Hít dưỡng khí vào đồng thời niệm: Nam mô A Di Đà Phật – Ba.
Giữ dưỡng khí tại huyệt Đan điền (dưới rốn) đồng thời niệm: Nam mô Tiêu tai Diên thọ Dược sư Phật – Mẹ.
Thở xú khí ra đồng thời niệm chú Kim cương thủ: Om – va – j – ra – pa – ni – hum tiêu trừ ác nghiệp thân khẩu ý.
Cách hít – giữ - thở không khí như trên được tích hợp từ lối hô hấp của Y học và lối thở Quy thiền (Rùa thở) tạo nên một tiến trình thở tinh tấn tăng dần theo cấp số cộng giúp hành giả thấu nghiệm được sự điềm tĩnh tuyệt đối trong từng giây phút hiện tại của trạng thái lạc trú.
Trong đó, thần chú Kim Cương Thủ thuộc mật tông sẽ hỗ trợ một cách tích cực nhất cho Thiền giả trừ buông tà niệm, vững bước men theo Chánh đạo hướng tới cuộc sống thân an tâm yên ngay trong hiện kiếp.
Đồng thời tháng trước tôi cũng có đọc văn bản về:
Xác định 15 nhiệm vụ, giải pháp (NVGP) nhằm thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 8/1/2025 của Chính phủ về công tác Giáo dục & Đào tạo.
Trong đó, điều tôi tâm đắc là:
NVGP 7: Tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục thể chất, thể thao trường học cho học sinh, sinh viên, gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hóa học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trong chiều hướng chung của Nghị quyết này nhận thấy rằng: lòng yêu nước luôn có trong mỗi cá nhân Việt vì nhờ nó mà dân tộc ta vẫn thoát Hán được sau cả ngàn năm đô hộ từ giặc Tàu (179 TCN – 938), thoát Pháp sau cả trăm năm bị đô hộ (1858 – 1954). Phật giáo giúp chúng ta củng cố lòng tự hào và tự tôn đó. Bởi vì Phật giáo vốn mang tính thực nghiệm tâm linh, giúp mỗi cá nhân hướng vào hải đảo tự thân, dùng Chánh pháp làm đuốc tự soi đường mà bước theo lối Trung đạo vốn bất lụy – bất lạc.
Đó là lối nghĩ tránh làm ác tối đa và cố gắng làm việc thiện tối thiểu.
Đó là lối sống ko ép hành thân tâm cũng ko để bản thân đắm chìm trong hưởng lợi.
Đó là lối cầu sở hữu trí tuệ Bát nhã từ mười phương chư Phật trên cơ sở từ bi tam muội.
Sau cùng, trong dịp Tết Nguyên tiêu năm nay 2025 có lễ hội Thơ quốc gia tổ chức tại Ninh Bình làm tôi nhớ lại cách đây mười bảy năm mình có sáng tác Trường thi “Tổ quốc tôi”. Đó cũng là dịp Tết Nguyên tiêu Mậu Tý 2008, khi tiết trời mát dịu đầu xuân dể gợi hứng trong tôi nguồn thi cảm đầy đặn đủ để tôi cảm tác ra dòng thi sử xuyên suốt bốn ngàn năm dựng – giữ - phát triển đất nước của dân tộc Việt. Mùa Đông Mậu Tý 2008, tôi hoàn thiện trường thi phẩm này xuyên suốt theo một nguyên tắc chung: thể thơ xuất khởi từ dòng tứ tuyệt mà ba câu đầu gồm bảy chữ / câu và cách tân câu thứ tư gồm tám chữ.
Cuối cùng, tôi xin kết thúc bài viết này bằng cách chính thức đăng tải bài trường thi “Tổ quốc tôi” như một món quà phương tiện đầy tính sáng tạo, tự tôn dân tộc. Từ đó, chúng thực giúp thế hệ trẻ Việt hôm nay biết sống tự lập cá nhân để được tự do tự tại - tự trọng bản thân để biết yêu mình đúng mức. Đồng thời, họ cũng biết cách kết nối mọi người tùy duyên: thuận cảnh biết tri túc để giúp người vô vụ lợi – nghịch cảnh biết bao dung để sát cánh cùng người tìm ra giải pháp thoát khổ.
Nam mô A Di Đà Phật! (Cầu trí tuệ Bát nhã).
Nam mô Dược Sư Phật! (Cầu Tiêu tai – Diên thọ).
TỔ QUỐC TÔI
Tổ quốc tôi dáng hình chữ S
Nét cong nghiêng bờ biển vỗ đêm ngày
Sừng sững đứng Trường sơn như tấm chắn
Giữ khung trời xứ Việt mãi bình yên.
Tổ quốc tôi dáng hình chữ S
Đối biển Đông ba ngàn đảo liên kề
Hoàng Sa đó tiếp Trường Sa của Việt
Có từ thời Chúa Nguyễn khẩn khai Nam.
Tổ quốc tôi văn hoá ba vùng
Bắc: Đông Sơn trống đồng in dấu tích
Trung: Cham-pa văn hoá thuộc Tam thần
Nam: Khơ-me Tiểu thừa theo Phật sự.
Tổ quốc tôi bất tử bốn Ngài
Tản Viên thánh chinh tai dẹp họa trời
Mẫu Liễu Hạnh chăm dân lần nẻo thiện
Có từ thời vua chúa của Hậu Lê.
Tổ quốc tôi bất tử bốn Ngài
Chống ngoại xâm Phù Đổng Thiên Vương hùng
Chử Đồng Tử tình yêu chấp sang khốn
Sung túc gia bền vững phước sum vầy.
Tổ quốc tôi tôn giáo đa hình
Phật giáo có Trần Nhân Tông ông Tổ
Lập ra thiền Yên tử bảy trăm năm
Dân tộc Việt nghìn thu nương pháp ấy.
Tổ quốc tôi dù dâu thành bể
Bể thành dâu lòng thiền luôn hỷ tại
Định tâm hồn trí tuệ phát sinh ngay
Chung sức hiến ươm giàu vinh đất nước.
Tổ quốc tôi trước ngày Pháp lấn
Công giáo vào theo dấu mục sư Tây
Luôn yêu nước lòng chiên hằng kính Chúa
Cổng nhà thờ rộng mở ở khắp nơi.
Tổ quốc tôi Hoà Hảo - Cao Đài
Mãi lưu truyền nếp thiện nghĩa tư gia
Trải dài rộng Cửu Long phù sa trĩu
Lan tỏa thành lưỡng giáo của phương Nam.
Tổ quốc tôi đa tộc chung lòng
Cùng xây vững từ viên gạch đến ngói
Thành ngôi nhà năm bốn mái liên thông
Không phân biệt chỉ biết mình tộc Việt.
Trong đó Kinh anh cả khoan hồng
Chiếm tỉ lệ tám phần mười dân số
Nom đàn em năm ba đoàn kết lại
Trải rộng khắp theo sông núi rạch ngòi.
Tổ quốc tôi Quan họ ca trù
Từ phía Bắc kịch tuồng chèo hát sẩm
Rồi Nhã nhạc di phần phi vật thể
Ở mạn Nam tài tử hợp ca đàn.
Tổ quốc tôi Tết đầu Nguyên Đán
Dân náo nức thăm quyến thuộc thân bằng
Tiếp Bắc phần có lễ hội chùa Hưong
Tháng giêng đó lễ Thượng Ngươn là hết.
Hội đền Hùng giỗ tổ Hùng vương
Về Phú thọ tháng Ba mồng Mười đó
Thắp nén hương lên bàn thờ quốc Tổ
Để cảm tri sông núi được như giờ.
Tháng tư về có tết Khơ me
Thêm lễ hội thắp hương bà chúa Xứ
Rồi phía Bắc Hội Thánh Gióng tưng bừng
Khắp đất nước chung vui mùa Phật đản.
Tết Đoan Ngọ tháng Năm thường thấy
Lễ Trung Ngươn tháng Bảy Kiết hạ về
Giỗ thánh Trần tháng Tám Tết Ka tê
Trung thu đó Tết dành riêng niên thiếu.
Hội Liễu Đôi vật võ so tài
Hội chọi trâu Hải Phòng xong Vĩnh Phúc
Rồi Đâm Trâu Đắc Lắc hội Voi tề
Lễ hạ Ngươn tháng Mười chung cõi Việt.
Tổ quốc tôi ẩm thực ba miền
Bắc có phở lừng danh từ xưa lắm
Nam thơm ngon hủ tiếu đệ nhất vùng
Trung mì Quảng, bún bò nguyên chất Huế.
Rượu làng Vân đầm sâu văn cách
Rượu Bàu Đá nồng cương đường võ khái
Rượu Phú Lễ thơm thoáng đãi vạn người
Chiều thử nếm một đời không nỡ bỏ.
Tổ quốc tôi áo dài tím Huế
Lan năm châu mang nét đẹp thiên thần
Nó xiển dương đường cong nơi phái yếu
Tạo dáng mềm khêu gợi vẫn đoan trang.
Tổ quốc tôi gốm sứ đa màu
Rời Hán thuộc hai nghìn năm còn thiếu
Lai bản Tàu giữa lòng thời Bắc thuộc
Đạt Việt chất Chu Đậu tiếp Bát Tràng.
Tổ quốc tôi truyện Kiều nỗi tiếng
Vượt thời gian ra thế giới lâu rồi
Ai cũng biết Nguyễn Du là tác giả
Nửa kỷ rồi dân Việt hiểu khóc Ông.
Tổ quốc tôi Bắc Việt vua Hùng
Non gần chẵn ba nghìn năm tồn trị
Nước Văn Lang mười tám đời hiển hách
Để tháng Ba quốc nhật lấy ngày Mười.
Tổ quốc tôi có Cổ Loa thành
Nửa thế kỷ An Dương Vương từng ngự
Cả tin lòng dung Trọng Thuỷ trong tay
Mất Âu Lạc mất luôn người con gái.
Rồi quân Triệu tung hoành yên mã
Cướp nước tôi đô hộ trăm năm trời
Khởi Bắc thuộc giếng tình tên là Ngọc
Soi oan duyên Trọng Thuỷ-Mỵ Châu sầu.
Tổ quốc tôi Bắc thuộc ba lần
Nghìn năm lẻ kể từ hai lẻ bảy
Trước công nguyên đằng đẳng đến Ngô Quyền:
Đưa dân tộc thoát Tàu ách nô dịch.
Ôi nghìn năm xiềng quốc thành hận
Bắc thuộc đầu hai trăm rưỡi năm đau
Ba năm lẻ Mê Linh còn vẳng trống
Hán siêu hồn nghe tiếng Nữ Trưng Vương.
Ôi nghìn năm xiềng quốc thành hận
Bắc thuộc hai Bà Triệu liệt anh hùng
Từ Thanh Hoá nửa năm trời bôn tẩu
Đuổi Đông Ngô tan sạch bóng quân thù.
Ôi nghìn năm xiềng quốc thành hận
Bắc thuộc hai năm thế kỷ miên đày
Duy độc lập năm tám năm hùng mạnh
Vạn Xuân quốc Lý Nam Đế vương hiền.
Ôi nghìn năm xiềng quốc thành hận
Bắc thuộc ba: ba thế kỷ hơi già
Phùng Hưng đó chín năm trời xưng bá
Mai Thúc Loan sừng sững bậc anh hùng.
Ôi nghìn năm xiềng quốc thành hận
Nam Việt đầu thời Triệu đặt tên ta
Giao Châu đó rồi An Nam đồng vậy
Suốt thiên thu tên nước đặt theo Tàu.
Khúc Thừa Dụ khởi thời tự chủ
Ba ba năm Tiết Độ Sứ bốn đời
Đường công nhận vai trò như thế ấy
Tên An Nam tên nước vẫn như vầy.
Chín ba chín khởi thời giữ nước
Hai sáu năm bình ổn một Ngô triều
Trải ba đời vương vị họ Ngô thay
Nước Vạn Xuân Cổ Loa thành đô cũ.
Chín ba chín khởi thời giữ nước
Cuối Ngô triều dính thập nhị sứ quân
Đinh Bộ Lĩnh ra tay hầu dẹp loạn
Kết hai năm đằng đắng cảnh bất hoà.
Đinh Tiên Hoàng là Đinh Bộ Lĩnh
Trải hai đời thủ phủ ở Hoa Lư
Đại Cồ Việt manh sinh từ thuở ấy
Giữ vương triều thế vững mười hai năm.
Dương Vân Nga thái hậu Đinh triều
Vua còn nhỏ biên thuỳ quân giặc lấn
Phải trao ngôi sắc vương vị Lê Hoàn:
Đuổi quân Tống giữ quốc bình một thuở.
Lê Đại Hành tiền Lê khởi đế
Trãi ba đời đất nước chẳng thay tên
Hai chín năm về cuối thật ê chề
Thần thay đế danh tài Lý Công Uẩn.
Chín ba chín khởi thời giữ nước
Trải ba triều tồn vị khá vinh miên
Tên Đại Việt gắn liền sao quá khớp
Mở sơn hà rộng mãi cả miền Trung.
Thời đại Lý có từ Công Uẩn
Thái Tổ triều tiên tạo tại Thăng Long
Một nghìn lẻ mười năm từ khởi đế
Đến Chiêu Hoàng kết chuyển giữa bình yên.
Quốc Tử Giám có từ triều Lý
Trải chín đời hai kỷ mười lăm năm
Lý Thường Kiệt đánh tan tành quân Tống
Giữ quốc gia độc lập tuyên ngôn đầu(I).
Trần Thái Tông khởi nghiệp vương triều
Ba lần thắng quân Nguyên lùi tán bại
Thiếu Đế triều thiếu lửa sưởi vương cung
Đoạn ngai vị thời Trần son vụt hết.
Mười ba đời triều Trần vinh liệt
Một bảy lăm số năm quyền vương trị
Mở quốc thuỳ hôn phối đổi hai châu
Huyền Trân đó công đầu lưu vĩnh sử.
Trần Hưng Đạo thiên tài quân sự
Mẫu anh hùng thế giới phải tôn vinh
Bởi thiên thu Hịch tướng sĩ danh lừng
Lưu muôn đời hào khí vượng non sông.
Ép nhường ngôi Thiếu Đế siêu lòng
Hồ Quý Ly bảy năm giành ngôi vị
Đại Ngu quốc tên nước của vua Hồ
Tồn vương vị qua hai đời ngắn ngũi.
Hậu Trần thay truyền giữ hai đời
Dài bảy năm trông ra đà quá ngắn
Rồi quân Minh chà xoá nẻo biên thuỳ
Dân mất nước lâm trăm đường oán thống.
Lê Thái Tổ tên thường Lê Lợi
Dấy đao binh Minh đế phải lui về
Gầy vương nghiệp dài nhất nước Đại Việt
Năm mươi năm thêm ba thế kỷ già.
Lam Sơn đó mười năm chướng khí
Bền bĩ chờ vun lực đuổi xâm lăng
Kháng chiến kết Thăng Long đà thay đổi
Đông Kinh thành một thuở thủ đô ta.
Hai sáu đời triều Lê vương khởi
Bản Bình ngô đại cáo tuyên ngôn nhì (II)
Của Nguyễn Trãi trung thần oan đến nghẹn
Ẩn muôn đời huyết án Lệ Chi viên…
Hai sáu đời triều Lê vương thống
Chỉ mười đầu thực lực có trong tay
Rồi gián đoạn sáu lăm năm nhà Mạc:
Soán ngôi Lê vương nghiệp trải năm đời.
Nước Đại Việt Lê triều sau cuối
Mở quốc gia rộng thẳng Quy Nhơn thành
Lê Thánh Tông công Người dân tộc tạc
Mỹ Sơn giờ di sản thế giới phong.
Lê Trung Hưng triền miên biến động
Lắm rối ren chinh chiến khổ dân tình
Nam Bắc Triều rồi Trịnh Nguyễn phân tranh
Ôi khốc liệt tương tàn tôi lấn chủ.
Lê Mẫn Đế là Lê Chiêu Thống
Rước quân Thanh giày mả tổ tiên mình
Thành bán nước muôn đời dân oán thán
Bức Lê triều chấm hết giữa can qua.
Mười hai đời chúa Trịnh lấn Lê
Cả trời Bắc mất dần tôn với tự
Còn trời Nam ghi hình tên chín chúa
Khẩn khai hoang chúa Nguyễn bậc khai thần.
Có câu sấm: Hoành Sơn nhất đái
Để sau này vạn đại được yên thân
Là câu sấm Nguyễn Bỉnh Khiêm thần khẩu
Chúa Nguyễn Hoàng “Nam tiến” khỏi vong thân.
Rằng chúa Nguyễn khai đường mở cõi
Gia Định thành thủ phủ xứ Nam xưa
Miền đất Cửu ghi công nàng Ngọc Vạn
Đất nước tôi chữ S thấy không người.
Tổ quốc tôi hàm ơn Nguyễn Huệ
Vị anh hùng đất Võ giỏi đao binh
Đánh thần tốc Mãn quân lùi tháo chạy
Đống Đa gò hai mươi vạn tiêu vong.
Tổ quốc tôi hàm ơn Nguyễn Huệ
Vị anh hùng áo vải xứ Tây Sơn
Lấy sông Gianh xoá Trịnh Nguyễn bất hoà
Đặt dấu chấm triều Lê rời vương trị.
Triều Tây Sơn hai bốn năm ròng
Gầy vương nghiệp Quang Trung là Nguyễn Huệ
Giã biệt đời trung vận khởi chưa lâu
Ôi thương tiếc thiên thu còn nhỏ lệ!
Triều đại Nguyễn, Gia Long gầy khởi
Huế kinh đô di sản thế giới rồi
Bốn đời đầu thế nước Việt Nam hưng
Chín đời tiếp kinh thành quân Pháp lấn.
Minh Mạng đế tên là Phúc Đảm
Ông vua tài hành chính chuẩn chu xây
Đổi Đông Kinh thành Hà Nội bây giờ
Thủ đô đó nghìn năm Long khí vững.
Bảo Đại Đế con Trời sau cuối
Liễu vương quyền trao ấn Cộng sản thay
Trách nhiệm hết nghìn năm phong kiến Việt
Chủ tịch Hồ linh tộc kỷ hai mươi:
Mồ côi mẹ năm mười một tuổi
Chục năm sau xuất ngoại kín phong trần
Rồi nguyên ngộ cung đường đi cứu nước
Giúp Việt Nam thoát khỏi thực dân tròng.
Bản tuyên ngôn truyền giữa Ba Đình
Trân trọng đọc giọng trong: Hồ Chủ tịch
Độc lập quốc tuyên thệ giữa khắp cùng
Năm châu biết muôn dân mừng vạn hỷ.
Ngày Quốc khánh mồng Hai tháng Chín
Tuyên ngôn ba(III) tộc Việt tự do về
Độc lập rồi quốc thể hạnh phúc thay
Hằng ghi nhớ công ơn Hồ Chủ tịch…
Pháp chiếm Việt mất thành Gia Định
Mất luôn tên Pháp đổi xứ Sài Gòn
Rồi chiến dịch bảy lăm vừa kết thúc
Hồ Chí Minh ta đặt tri ân Người.
Võ Nguyên Giáp sinh thành quân đội
Đánh tan tành cứ điểm Điện Biên xưa
Thế giới biết năm châu đều ngưỡng mộ
Pháp co giò Mỹ tiếp tục thay chân.
Lê Duẩn đó người thư ký Đảng
Vạch kế sách đàm- đánh lưỡng liên hoàn
Đại thắng rồi một chín bảy lăm qua
Xuân ở lại kết hai miền sum họp.
Nguyễn Văn Linh tài cao kiên định
Tổng Bí thư Đại hội Sáu năm nào
Đưa đất nước men theo đường “đổi mới”
Thế thị trường định hướng Đảng đưa ra.
Tổ quốc tôi lớp lớp anh hào
Quen nhìn thẳng xông pha cùng cơ cực
Chân tựa hồ bàn thạch giữ giang san
Tâm mềm dẻo thời cơ luôn nắm đạt.
Tổ quốc tôi dấu ấn mẹ hiền
Được phong thưởng bát tự vàng lưu sử
Xếp vào hàng liệt nữ lẫn trung kiên
Ghi công hạnh mãi muôn đời chúc tụng.
Tổ quốc tôi một dải men bờ
Hai trăm lý năm châu cùng thừa nhận
Từ Móng Cái đến Hà Tiên xa tít
Khoảng ba ngàn cây số với hai trăm.
Tổ quốc tôi ngàn năm giặc Tàu
Trăm năm thiểu giặc Tây đày chiếm cướp
Hai mươi năm Mỹ Nguỵ xéo song giày
Vẫn không bị mờ chia nguyên giống Việt.
Tổ quốc tôi bốn ngàn năm lẻ
Chịu nô đày chinh chiến nhuốm ly tang
Không đồng hoá vào dòng văn hoá khác
Không một mai lai tạp tiếng tên Người.
Tổ quốc tôi hội nhập nguyên cầu
Cần tự trọng nhân mầm cho ý thức
Tiếp văn minh văn hóa phải lưu gìn
Giữ thuần Việt muôn đời gốc vẫn vậy.
Tổ quốc tôi tự trọng vun bồi
Nhiều tự ái tìm cách hầu tuôn xả
Từ thụ động chuyển dần sang chủ động
Thoát qua nghèo dân đẹp áo no ăn.
Tổ quốc tôi tham nhũng lan tràn
Thành quốc nạn lòng dân nuôi oán thán
Muốn diệt trừ xã hội hoá minh khai
Cùng đồng loạt: “ nói không chùi lo lót”.
Tổ quốc tôi bốn triệu Việt kiều
Cùng đau đáu hướng mắt về nguồn cội
Dõi theo từng hơi thở của quê hương
Mong đất nước mỗi ngày thêm hưng vượng.
Tổ quốc tôi dáng vững chân kiềng
Cùng tiên tổ giống nòi tên Âu Lạc
Hãy giữ lấy linh hồn dân tộc Việt
Gắng trau dồi đất nước mãi đi lên!
Huế, mùa Đông Mậu Tý- 2008
Cẩn tác
NGUYỄN ĐÌNH MỸ
CHÚ THÍCH:
(I) “Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Sông Như Nguyệt- TP Hải Phòng 1076
Lý Thường Kiệt
(II) Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cứ còn ghi. Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thưà cơ gây hoạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi ! Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được? Ta đây: Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà: Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.
Thăng Long 1428
Nguyễn Trãi
(III) Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Teheran (1943) và San Francisco (tháng 6/ 1945), quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Hà Nội, 2.9.1945
Hồ Chí Minh
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tránh né cái ác
Phật pháp và cuộc sốngĐức Phật nói cho chúng ta biết hết thảy mọi thứ trên cuộc đời đều do nhân duyên mà sinh khởi và cũng do nhân duyên mà đoạn diệt; tương tự như vậy, các phiền não khổ đau sở dĩ phát sinh là do duyên gần gũi với cái ác, với các đối tượng xấu ác hoặc do tiếp xúc với môi trường không thân thiện; và do vậy để ngăn tránh các phiền não khổ đau thì con người cần phải tránh xa cái ác, tránh xa các đối tượng xấu ác hoặc môi trường không lành mạnh.
Khi phố lên đèn
Phật pháp và cuộc sốngCó một chiều thôi bận bịu, ta lang thang xuống phố, ngồi ở một ghế đá vỉa hè hay mỗi quán cóc nào đó thân quen. Ta hãy gác lại những lo toan bề bộn, cất đi những lo lắng ưu tư, cứ để cho lòng mình miên man vô định, ta ngồi ngắm phố xá lên đèn...
Cõi bồng phiêu
Phật pháp và cuộc sốngNgười đi từ cõi bồng phiêu/ Cơ hồ bóng xiêu chiều xuống/ Núi rừng ru hời tiếng vượn/ U hoài chạy trốn hoang liêu.
Liệu pháp tâm linh mang lại lợi ích nhất cho em bé khi còn trong bụng mẹ
Phật pháp và cuộc sốngBất kỳ người làm mẹ nào cũng đều cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi biết mình đang mang trong mình một mầm sống. Bởi đứa con là kết tinh của tình cảm vợ chồng, là niềm hy vọng và ước mơ của đấng sinh thành về một em bé khỏe mạnh, ngoan ngoãn và thành đạt sau này.
Xem thêm














