Giật mình, mình lại thương mình...

Trong văn học Pàli Phật giáo Thượng tọa bộ, có một câu nói mang âm hưởng gần giống với tâm sự của Nguyễn Du gởi gắm trong Truyện Kiều: “Giật mình, mình lại thương mình xót xa”, nhưng hàm ý sâu lắng và rõ ràng hơn tâm sự của Tố Như. Đó là thuật ngữ “ái luyến tự ngã” (attakàmarùpa), có nghĩa là yêu quý bản thân, xót thương cho chính mình.

Đây là thuật ngữ được dùng để chỉ cho tâm trạng các Tỳ- kheo hiền trí (1) đang ngày đêm nhiệt tâm tinh cần hành sâu giáo pháp giác ngộ của Phật với mục đích đoạn trừ các lậu hoặc, giải thoát hoàn toàn mọi hệ lụy khổ đau của sinh tử luân hồi, sau khi đã nhận ra:

“Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Tuy vậy ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này”.

Đó là cảm thức của những người đã ngộ ra sự thật khổ đau của hiện hữu nói chung(sanhàra-dukkhatà)và quyết tâm thực hành con đường (Bát Thánh đạo) đưa đến chấm dứt khổ đau, những người được gọi là hữu học (sekha), đang nỗ lực “cần cầu vô thượng an ổn khỏi các khổ ách - Niết-bàn”. Đó không phải là cảm giác đắm mình trong chốn “bồng lai” để cứ tiếp tục kéo dài số kiếp mê lầm ở trong luân hồi khổ đau. Đó cũng không phải là cảm giác than thân trách phận vì cảnh “tài mệnh tương đố” giữa cuộc bể dâu. Nói cách khác, đó không phải là thái độ “thuận ứng” hay “nghịch ứng” của tâm thức đối với những gì diễn ra trên cuộc đời, vốn là hệ quả tất yếu của nghiệp duyên, chuyển biến không dứt trong cái chuỗi hiện hữu mê lầm ở trong vòng luân hồi. Trái lại, đó là cảm thức giật mình xót xa cho số kiếp mê lầm luẩn quẩn mà mình đang mắc phải đi đôi với ý chí quyết tâm dứt trừ hoàn toàn mọi mê lầm-khổ đau (vô minh uẩn=khổ uẩn). Đó là tiếng nói của tỉnh thức và trí tuệ tuôn chảy mạnh mẽ trong nội tâm, thể hiện qua nếp sống tinh cần tinh tấn thực hành đạo lý Giới-Định-Tuệ nhằm mục đích giải thoát mê lầm, chấm dứt hoàn toàn mọi hệ lụy khổ đau ở trong sanh tử luân hồi. Trong đạo Phật, những ai bắt đầu nhận ra mình bị chìm đắm trong khổ đau vì mê lầm (tham-sân-si) và quyết tâm sống theo lời Phật dạy để thoát khỏi mê lầm-khổ đau thì được gọi là ái luyến tự ngã hay biết thương mình (2). Hẳn nhiên, người biết thương mình như thế thì chắc chắn không bao giờ để cho mình tiếp tục khổ đau vì mê lầm nữa. Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật là người đầu tiên biết thương mình, biết xót xa cho sự mê lầm của bản thân mình và của cuộc đời, bị giam hãm trong cảnh sanh tử luân hồi mà không hay biết, không tỉnh thức, cứ tiếp tục tìm kiếm và mê đắm triền miên trong vòng luẩn quẩn khổ đau:

“Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt và bị tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát khỏi già chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến sự xuất ly già chết?” (3).

“Này các Tỳ-kheo, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh; tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già; tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm... Này các Tỳ- kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm?”. (4)

“Cười gì, hân hoan gì,

Khi đời mãi bị thiêu,

Bị tối tăm bao trùm,

Sao không tìm ngọn đèn”? (5)

Giật mình, mình lại thương mình...  1
Ảnh minh hoạ.

Tài liệu Kinh tạng Pàli cho biết chính tiếng nói đầy ray rứt và đầy trí tuệ ấy đã thôi thúc ý chí xuất gia tìm kiếm chân lý thoát khổ của Thái tử Siddhattha và cũng chính tiếng nói ấy tiếp tục gợi mở phương pháp tu chứng đạo quả Niết-bàn của Ngài ở dưới cội bồ-đề. Kinh Thánh cầu thuộc tuyển tập Trung Bộ mô tả những ưu tư trăn trở của Đức Phật về sự mê muội-khổ đau của nhân thế dẫn đến việc Ngài quyết tâm xuất gia tìm cầu chân lý thoát khổ:

“Này các Tỳ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy6 bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng và bạc là bị già. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già. Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh. Và này các Tỳ-kheo, cái gì các Người nói là bị chết? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bi chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy là bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết. Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu, gà và heo là bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy là bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu. Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu la bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng và bạc là bị ô nhiễm. Và này các Tỳ- kheo, những chấp thủ ấy là bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm...

Này các Tỳ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ- kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... hãy tìm cầu cái không già... tự mình bị bệnh... hãy tìm cầu cái không bệnh... tự mình bị chết... hãy tìm cầu cái bất tử... tự mình bị sầu... hãy tìm cầu cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Rồi này các Tỳ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ...

Rồi này các Tỳ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khởi lên nơi Ta: Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa”. (7)

Như vậy, ưu tư, thương cảm về số kiếp khổ đau của chính mình cũng như của hết thảy chúng sanh, vì mê lầm mà tự giam mình trong thế giới trầm luân, đã khiến ĐứcPhậtđiđếnquyếtđịnhrờibỏngôibáu,giãbiệtvợ đẹp con thơ, xuất gia tìm đạo, thực hiện sự từ bỏ vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Ngài là người đầu tiên trong nhân loại trở nên tỉnh thức, quyết tâm rời bỏ mê lầm và cũng là người đầu tiên đạt đến giác ngộ, hết mê lầm. Ngài được tôn xưng là Phật (Buddha), bậc Tỉnh thức, đấng Giác ngộ, và trở thành vĩ nhân trong lịch sử loài người bởi Ngài là người đầu tiên trong nhân loại ra khỏi bến mê nhân thế, vượt qua khổ đau luân hồi và tuyên bố mọi người có thể thành tựu mục đích giác ngộ, đạt đến bất tử (amata) giống như Ngài nếu đi theo con đường do Ngài chỉ dạy8. Sự chứng ngộ và tuyên bố này của Ngài đã mở ra một chân trời giải thoát tuyệt đối to lớn trong lịch sử tư tưởng loài người đến độ hơn 25 thế kỷ sau khi Ngài nhập Niết-bàn, George Grimm đã viết:

“Hãy bảo cho tôi tên tuổi của một người khác đã trình bày thông suốt vấn đề lớn lao của loài người, làm sao thoát khỏi khổ đau và sự chết và khiến nó thành luận đề độc nhất của giáo lý và cuộc đời mình, như Đức Phật đã làm! Chắc chắn đã có trong nhân loại những nhân vật tiêu biểu hiểu được khổ đau, nguồn gốc khổ đau, sự đoạn diệt khổ đau và con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ đau. Bởi sự kiện khổ đau bao trùm cả vũ trụ cũng như đời sống mỗi cá nhân; vì vậy khổ đau là vấn đề khó lãnh hội, nếu không muốn nói là không thể lãnh hội. Tuy vậy, những hiểu biết này chẳng qua chỉ là những bóng mờ, những hiểu biết phiến diện không đưa đến kết quả chắc chắn. Điều này có thể áp dụng đối với triết học hiện đại của Schopenhauer, là người, không như những người châu Âu khác, đã nêu rõ bản chất của đời sống là khổ đau nhưng đã không tìm thấy con đường hay nhịp cầu vượt qua khổ đau. Còn nói gì đến triết học Upanisads mà tính cách vĩ đại của nó chỉ giáo lý Đức Phật mới vượt trội. Tuy vậy triết lý này cũng không giải quyết được vấn đề vì nó không chú ý nhiều đến nội dung khổ đau, không thấy khổ đau là sự kiện mọi lúc mọi nơi và do đó không biết đích xác con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Không như người khác, Đức Phật chỉ thẳng cho chúng ta vấn đề tuyệt đối căn bản của đời sống chúng ta, làm sao giải thoát khổ đau, và trên hết, khổ đau sinh tử.”(9).

Về phương pháp đi ra khỏi khổ đau sanh tử mà George Grimm đã xem là đóng góp lớn lao của Đức Phật cho thế giới loài người, bản kinh Mahà Sakyàmuni Gotama lưu ở Tương Ưng Bộ nói rõ chính nỗi niềm ưu tư trăn trở không dứt về bản chất khổ đau của hiện hữu tiếp tục là tiền đề cho sự nỗ lực tư duy Thiền quán và phát hiện ra chân lý giải thoát của Ngài:

“Thuở xưa, này các Tỳ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, tư tưởng sau đây được khởi lên: Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt và bị tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát khỏi già chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến sự xuất ly già chết”.

Rồi này các Tỳ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: “Cái gì có mặt, già chết có mặt? Do duyên gì, già chết sanh khởi?” Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: “Do sanh có mặt nên già chết có mặt. Do duyên sanh nên già chết sanh khởi”.

Rồi này các Tỳ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: “Cái gì có mặt, sanh có mặt... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hành... do duyên gì, hành sanh khởi?”.

Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: “Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh nên hành sanh khởi”.

Như vậy vô minh duyên hành, hành duyên thức...hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

“Tập khởi, tập khởi”, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

Rồi này các Tỳ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: “Cái gì không có mặt, già chết không có mặt? Do cái gì diệt nên già chết diệt?”. Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: “Do sanh không có mặt nên già chết không có mặt. Do sanh diệt nên già chết diệt”.

Rồi này các Tỳ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: “Cái gì không có mặt, sanh không có mặt... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hành... Do cái gì diệt, hành diệt?”.

Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: “Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do vô minh diệt nên hành diệt”.

Như vậy, vô minh diệt hành diệt; hành diệt thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

“Đoạn diệt, đoạn diệt”, này các Tỳ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên”. (10)

Vậy là nhờ công phu tư duy quán sát sâu xa về nguồn gốc của khổ đau, tuệ giác giải thoát - nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh - đã đến với Đức Phật, xua tan mọi mê lầm, mọi ưu tư trăn trở của Ngài về nỗi khổ trầm luân. Từ đây mọi bí mật về hiện hữu đã được giải đáp. Kinh Pháp Cú lưu hai bài kệ mô tả hai tâm trạng khác nhau của bậc Giác ngộ, một là tâm sự xót xa của Ngài khi còn chìm đắm trong sanh tử luân hồi và hai là tâm lý sung sướng hân hoan sau khi phát hiện và đoạn trừ được nguyên nhân gốc rễ của khổ đau:

Lang thang bao kiếp sống,

Ta tìm nhưng chẳng gặp,

Người xây dựng nhà này,

Khổ thay, phải tái sanh.

Ôi! Người làm nhà kia,

Nay ta đã thấy ngươi!

Ngươi không làm nhà nữa.

Đòn tay ngươi bị gãy,

Kèo cột ngươi bị tan,

Tâm ta đạt tịch diệt,

Tham ái thảy tiêu vong. (11)

Nhìn chung, với sự chứng ngộ nguyên lý Duyên sinh (Paticcasamupàda) dựa trên cơ sở suy tư quán sát thực tại sanh diệt của hiện hữu, Đức Phật đã tự giải thoát mình khỏi mọi mê lầm (vô minh uẩn: avijjàkkhandha) khổ đau (khổ uẩn: dukkhakkhandha) và mở ra cho nhân loại một nhận thức và quan niệm sống hoàn toàn mới mẻ. Đó hết thảy hiện hữu đều do duyên sinh và do duyên diệt, vô thường, khổ, vô ngã, không do ai tạo ra, không ai làm chủ được. Khổ đau, một thuộc tính của hiện hữu, cũng là hiện tượng do duyên sinh và do duyên diệt, không do ai tạo ra, vô thường, vô ngã. Không có đấng Tạo hóa hay Thượng đế ban phúc hay giáng họa cho con người. Chỉ có con người tự chuốc lấy khổ đau cho chính mình vì mê lầm hoặc tự tạo an lạc cho mình nhờ giác ngộ. Nói rõ hơn, mọi khổ đau mà con người phải đối diện và có thể sẽ tiếp tục đối diện là hoàn toàn do sự si mê lầm lạc của con người. Hết thảy mọi thứ hiện hữu trên cuộc đời - vợ con, gia nhân, gia súc, vàng bạc - kể cả bản thân mỗi người đều chịu sự khổ đau bởi quy luật vô thường: già, bệnh, chết..; đã là vô thường khổ đau mà cứ thích thú, ôm ấp, ái luyến chúng, khao khát chúng, mong muốn nắm giữ chúng mãi mãi tức là cứ tiếp tục mời gọi khổ đau. Kinh Pháp Cú lưu nhắc như vầy:

Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não;

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu? (12)

Đó là lý do bậc Giác ngộ khuyên dạy mọi người phải biết thương mình, phải biết xót xa cho số kiếp mê lầm của chính mình, phải thức tỉnh về khổ đau, phải thấy rõ mê lầm (avijjà) là gốc của khổ đau (dukkha), đừng để cho mình tiếp tục rơi vào khổ đau vì mê lầm nữa. Đó cũng là lý do vì sao các bậc hiền trí chọn con đường xuất ly, buông bỏ danh lợi trần thế, thực thi nếp sống tri túc, chuyên tâm hành sâu Thiền định với mục đích tuệ tri gốc rễ khổ đau, giải phóng tâm thức khỏi mê lầm để đi đến tự do, giải thoát, dứt lầm lạc, hết khổ đau. Họ được gọi là những người biết thương mình, những con người tỉnh thức, ngày đêm tha thiết với lẽ sống minh triết do bậc Giác ngộ giảng dạy:

Quá khứ không truy tìm,

Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận,

Tương lai lại chưa đến.

Chỉ có pháp hiện tại,

Tuệ quán chính ở đây.

Không động, không rung chuyển,

Biết vậy, nên tu tập.

Hôm nay nhiệt tâm làm,

Ai biết chết ngày mai?

Không ai điều đình được,

Với đại quân thần chết,

Trú như vậy nhiệt tâm,

Đêm ngày không mệt mỏi,

Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,

Bậc an tịnh, trầm lặng.(13)

Chú thích:

1. Tiểu kinh Rừng sừng bò, Kinh Tùy phiền não, Trung Bộ.

2. Kinh Thân ái, Tương Ưng Bộ.

3. Kinh Thành ấp, Tương Ưng Bộ.

4. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

5. Pháp Cú, kệ số 146.

6. Chỉ cho các pháp hữu vi, những thứ do duyên vô minh và tham ái mà sanh, chịu sự thay đổi, biến diệt, không ai nắm bắt hay làm chủ được.

7. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

8. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

9. G. Grimm, The Doctrine of the Buddha, tr.43-48.

10. Kinh Mahà Sakyàmuni Gotama, Tương Ưng Bộ.

11. Pháp Cú, kệ số 153-154.

12. Pháp Cú, kệ số 62.

13. Kinh Nhất dạ hiền giả, Trung Bộ.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ta cứ tưởng thứ mình tìm nằm ở bên ngoài

Phật pháp và cuộc sống 10:00 20/11/2025

Khi trái tim chưa đủ đầy, nó sẽ yêu bằng mong muốn được lấp đầy. Khi trái tim chưa đủ tỉnh sáng, nó sẽ yêu bằng nỗi sợ và hờn ghen. Và ta không biết rằng đó chính là nguyên nhân khiến mọi thứ trở nên nặng nề: ta đang đặt vào người khác một nhiệm vụ không ai có thể làm thay ta đó là nhiệm vụ làm cho chính ta hạnh phúc.

Tuỳ bút: Thiền định

Phật pháp và cuộc sống 09:35 20/11/2025

Trong một lần trò chuyện về những chương trình trên màn ảnh truyền hình, một anh bạn thân bày tỏ với tôi, là có một chương trình anh rất thích, nhưng anh lại dị ứng với người dẫn chương trình nên không bao giờ anh xem. Anh nói với tôi anh ghét cái vẻ cao ngạo, trịch thượng của “cái thằng cha” dẫn chương trình đến nỗi anh không muốn mở cái kênh đó ra, chứ không phải đợi mở ra thấy cái mặt đáng ghét mới tắt máy, dù trong lòng anh rất thích chương trình đó. Cái ghét nó lấn át cả cái yêu, làm cho anh có chút khó chịu, không biết làm sao mà giải quyết. Và cho đến bây giờ, điều đó vẫn còn làm cho anh không được thoải mái chút nào.

Đại đức Thích Khải Tuấn tán thán Hoa hậu Hương Giang

Phật pháp và cuộc sống 16:48 19/11/2025

Chiều 19/11, phần thi Trang phục dân tộc - National Costume của Miss Universe 2025 đã thu hút sự theo dõi của hàng triệu khán giả toàn cầu.

Thiên thu vừa chợp mắt

Phật pháp và cuộc sống 16:30 19/11/2025

Mọi chấp đều rời rã/ Như sương tan ngọn đồi/ Một niệm buông trọn vẹn/ Trời hiện giữa lòng người...

Xem thêm