Giới Định Tuệ là cốt lõi của Phật giáo, con đường đi đến giác ngộ giải thoát
Toàn bộ Kinh Luật Luận Phật giáo là nói về Tam học giới định tuệ, nhằm đưa ta đến cái hiểu cái biết, cái nhìn đúng như thực về các pháp, về mọi sự vật hiện tượng và nói cho cùng, mọi tư tưởng học thuật trên thế gian cũng chỉ nhằm trình bày cái sở kiến, cái biết.
Thực tại được nói đến cũng không ngoài cái biết, toàn bộ thực tại là cái biết, toàn bộ học thuật thế gian đều khởi sự bằng cái biết và kết thúc bằng cái biết. Trí tuệ (cái biết) đã đạt đến viên mãn trọn vẹn thì bấy giờ chẳng còn vấn đề gì cả đối với cá nhân đã thể nghiệm cái biết ấy. Cái biết trọn vẹn có công năng chiếu rọi, thấu nhập vào mọi sự là trí tuệ tối thượng, cái trạng thái biết như thế gọi là đại giác ngộ, giải thoát. Đó là cái biết của chư Phật, là cả một khối nhất như của toàn bộ thực tại không phân chia.
Tu học thực chất là phát triển giới định tuệ hàng ngày, hàng giờ.
Người tu học theo bất kỳ pháp môn nào, tông phái nào mà giới định tuệ không tăng trưởng thì biết chắc là tu chưa đúng đường.
Giới định tuệ là chất liệu làm xói mòn tham ái, tan chảy cơ chế tái sanh
Tam học: (三學; sa. triśikṣā, pi. tisso-sikkhā) chỉ ba môn học quan trọng nhất của người tu học theo Phật giáo.
Tam học gồm:
Giới (戒 sa. शील śīla, pi. sīla) là giới luật mà tăng, ni, Phật tử tại gia phải tuân thủ, giữ gìn.
Giới học (sa. adhiśīlaśikṣā);
Giới thường được hiểu là Giới hạnh, điều luật đạo đức.
Giới có tính chân lý, tính thiện, người học, thực hành giới là sự chủ động tự nguyện, không có sự bắt buộc khiên cưỡng.
Cũng có thể hiểu chánh niệm là giới.
Sìla nguyên nghĩa là sự tự nhiên, là thói quen. Vậy Giới vốn là thực tại với những quy luật vận hành rất tự nhiên. Có điều khi vượt ra ngoài giới hạn của tự nhiên, hành động trái với quy luật của tự nhiên sẽ bất ổn. Để khỏi bị trở ngại khó khăn trong cuộc sống: cần rõ điều gì nên làm, điều gì không nên làm thuận theo quy luật theo đó, ý nghĩa đạo đức của giới mới xuất hiện. Về sau, sự giữ mình, chế ngự tâm mình để làm sao cho được an vui, để đừng bị trở ngại, khổ đau được gọi là giữ giới.
Phật tử tại gia có ngũ giới, 58 giới (Tại gia bồ tát giới), Sa di và sa di ni có 10 giới
Tỳ kheo 250 giới; Tỳ kheo ni 348 giới ......
Một cách diễn đạt tổng quát về giới là Tam tụ tịnh giới:
- Nhiếp luật nghi giới tức giữ gìn cẩn thận chu toàn các giới đã thọ nhận
- Nhiếp thiện pháp giới là lấy việc thực hiện tất cả các pháp thiện lành làm giới
- Nhiêu ích hữu tình giới tức lấy việc giáo hóa, cứu giúp, lợi ích cho muôn loại chúng hữu tình làm giới.
Định học (sa. adhicitta-śikṣā)
Định (定): trong ý nghĩa chung là Thiền định (Sanskrit: Dhyàna, Pàli: Jhàna). Samàdhi có nghĩa là sự tập trung, sự nhất tâm, định tâm. Hán dịch là Định, có ý nhấn mạnh sự ngưng tụ, trái nghĩa với sự tán loạn. Samàdhi có một số từ bà con là: Samà, Samanà (giống nhau, như nhau), Samaneti (góp chung lại), Samàhati (góp lại, thắp sáng), Samàvàya (sự họp lại, nối lại), Samàdhibàla (định lực), Samàdhiyati (sự vắng lặng, định tâm)...
Định là bản thể vắng lặng, nhất như, như thị của thực tại. Đối với một cá nhân, định là trạng thái thanh tịnh, nhất tâm, ổn cố, vững vàng, chuyên sâu. Cái tâm có định mới bình an, không lo lắng chao đảo, không nghi ngờ sợ hãi, không bị sai sử bởi những xu hướng xấu. Tâm có định mới hiểu rõ được sự vật, thông hội được thực tại.
Tuệ học (sa. adhiprajñā-śikṣā),
Tuệ (慧),là dịch từ chữ Panmà. Tuệ thường được hiểu là trí tuệ, là cái biết cái hiểu trọn vẹn như thật, chiếu rọi thông suốt vạn pháp. Tuệ là cái biết, đồng nhất với vạn pháp. Tuệ là cái biết, cái thấy đúng như thật về bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Trong Bát chánh đạo, chánh kiến, chánh tư duy là Tuệ. Đối với những người bình thường chưa giác ngộ thì Tuệ, dù là bản thể người ấy, vẫn chưa được khai thông, tỏ hiện, phát huy hoặc chỉ biểu hiện dưới hình thức phiến diện là cái biết của cảm giác, thông qua giác quan, có thể chưa chính xác hoàn toàn nhưng lại có khả năng phát triển, thăng hoa.
Đây là động cơ và lý do tồn tại của nền giáo dục Phật giáo vậy.
Nhìn tổng thể Giới, Định, Tuệ là ba mặt của một thực tại, cho nên trong Giới có Định, có Tuệ; trong Định có Giới có Tuệ; trong Tuệ có Giới có Định. Mức độ thăng tiến thăng hoa của tam học có mối quan hệ mật thiết, tương tức.
Đạo Phật lấy trí tuệ làm mục đích, sự nghiệp. Tam học, còn được gọi là Tam vô lậu học ý muốn nói ba môn học này rất cao thượng hoàn mỹ, trọn vẹn, không có khiếm khuyết, không có sơ hở giúp hành giả thành tựu các thánh quả giác ngộ không còn rơi rớt, trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi chịu khổ vô cùng.
Nói đơn giản giới là những điều giúp ngăn ngừa không để phát sinh các nghiệp ác, điều xấu. Định là sự tập trung tâm vào một đối tượng, là thiền định, cũng là sự chú tâm, sự tỉnh giác trong mọi hành động.
Tuệ là trí tuệ, là sự hiểu biết đúng như thật về các pháp, sự phát triển tâm Bát-nhã để ngộ được những sự thật cao nhất
Giới Định Tuệ là cốt lõi của Phật giáo, là con đường đi đến an vui hạnh phúc giác ngộ giải thoát.
Tam học ấy
Giới định tuệ
Cốt lõi Phật học
Nền tảng giác ngộ
Cùng tu học
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Học Phật bắt đầu từ đâu?
Kiến thức 18:00 12/11/2024Tôi nói: “Hiện tại tôi biết đạo Phật tốt, thù thắng không gì bằng!”. Tôi hỏi: “Có biện pháp gì để tôi rất nhanh có thể thâm nhập Phật pháp hay không?”
Vượt thoát ý niệm sinh tử luân hồi
Kiến thức 14:00 12/11/2024Tu hành là thấu rõ và giải quyết được sinh tử, quyết định làm chủ con đường tái sinh theo ý mình, không bị nghiệp chướng dẫn dắt.
Hãy học pháp tiệm giảm
Kiến thức 10:30 12/11/2024Pháp tiệm giảm là phương thức tiếp cận và làm suy giảm phiền não từng phần, đây là pháp tu phổ biến dành cho hạng sơ cơ như hầu hết chúng ta.
Buông xả không chấp là pháp tu trí tuệ
Kiến thức 08:05 12/11/2024Mỗi hành giả tự mình quan sát, biết rõ những thứ đã và đang gây ra phiền não khổ đau cho mình, biết chọn tu buông xả từ những thứ dễ xả dần đến những thứ khó; từ những sự việc cảm xúc đến những tập khí chướng ngại vi tế hơn.
Xem thêm