Hệ thống Tăng quan Phật giáo triều Nguyễn
Chế độ Tăng quan có mặt rất sớm trong Phật giáo Bắc truyền.
Theo Tăng Sử Lược chép: “Tăng Cang (僧綱) là danh xưng của chức quan do triều đình phong tặng cho các vị cao tăng trong Phật giáo, chưởng quản và thống lãnh toàn bộ Tăng Ni trong cả nước.”
Trong mục Tăng Quan ghi: “Chức vụ Tăng Cang gồm có:
1. Pháp vụ Tăng Cang - quản lý sự vụ của Tăng Ni và tự viện trong toàn quốc.
2. Oai nghi sư Tăng Cang - làm giám luật, mô phạm cho Tăng Ni”.
Chế độ Tăng quan có mặt rất sớm trong Phật giáo Bắc truyền. Ở Trung Quốc, hệ thống này hình thành từ thời Ngụy - Tấn - Nam Bắc triều (280-588). Ở Hàn Quốc, xuất hiện từ thời Tân La (550); ở Nhật Bản từ thời Thôi Cổ Thiên Hoàng (642); còn tại Việt Nam, có từ triều vua Đinh Tiên Hoàng (933-1011).

Cơ cấu và vai trò thời Nguyễn
Dưới triều Nguyễn, việc bổ nhiệm các chức Tăng Cang và trụ trì chùa Sắc Tứ do Bộ Lễ cùng Tôn Nhân phủ đảm nhiệm. Nhà vua trực tiếp lựa chọn Tăng Cang, cấp Độ điệp và giao chùa cho cai quản. Khi chùa khuyết chức Tăng Cang, nhà chùa phải tâu trình Bộ Lễ để xin chỉ nhà vua sát hạch, phê chuẩn và cấp Sắc chỉ.
Bên cạnh vị Tăng Cang, mỗi chùa còn có một vị Trụ trì phụ trách cai quản Tăng chúng. Các vị Tăng Cang và Trụ trì đều được triều đình miễn sưu thuế, sưu dịch, cấp lương hàng tháng và ban pháp phục.
Tăng Cang là một chức vụ thuộc hàng Tăng lữ, nhưng nằm trong hệ thống phẩm cấp của triều đình Huế. Các vị này được bổ nhiệm và thuyên chuyển đến các ngôi Quốc tự giống như việc bổ nhiệm quan lại, và được hưởng bổng lộc, người phục dịch theo quan chế.

Chế độ đãi ngộ và quản lý
Các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đều có tổ chức sát hạch, cấp Giới đao và Độ điệp để quản lý hàng Tăng Ni, chọn người am hiểu Phật pháp, đủ đức hạnh đảm nhận chức Tăng Cang cai quản các ngôi Quốc tự - những chùa do nhà nước xây dựng và bảo hộ.
• Thời Gia Long:
Chùa Thiên Mụ có 21 Tăng đạo, mỗi người hàng tháng được cấp 1 phương gạo.
• Đời Minh Mạng:
Mức cấp dưỡng được điều chỉnh: mỗi Tăng được 60 quan tiền, 55 phương gạo, 5 phương gạo trắng và 6 thưng muối mỗi tháng.
- Chùa Long Quang: mỗi tháng cấp 15 quan tiền và 21 phương gạo.
- Chùa Thánh Duyên: sư trưởng mỗi tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng; các sư nam, sư nữ mỗi người 1 quan tiền và 1 phương gạo; chú tiểu 5 tiền và 15 đấu gạo.
- Chùa Giác Hoàng: sư trưởng mỗi tháng 3 quan tiền, 1 phương gạo trắng; các sư mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo.
- Chùa Diệu Đế: sư trưởng mỗi tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng; các sư mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo.
• Thời Tự Đức:
Chính sách được quy định cụ thể và bình quân hơn. Năm thứ 3 (1850), nhà vua cho rà soát số lượng Tăng Ni tại các Quốc tự để điều chỉnh phù hợp.
Cụ thể:
• Chùa Thiên Mụ: 1 Tăng Cang, 48 sư.
• Chùa Diệu Đế: 1 Tăng Cang, 1 sư trưởng, 20 sư.
• Chùa Giác Hoàng: 1 sư trưởng, 15 sư.
• Chùa Linh Hựu: 1 sư trưởng, 10 sư.
• Chùa Thánh Duyên: 1 sư trưởng, 9 sư, 2 chú tiểu.
Các mức cấp dưỡng tương ứng:
Tăng Cang - 3 quan tiền, 1 phương gạo trắng/tháng.
Sư trưởng - 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng/tháng.
Sư - 1 quan tiền, 1 phương gạo/tháng.
Đạo đồng - 6 tiền, 1 phương gạo/tháng.
Chùa Long Quang có 1 sư trưởng, 20 sư, 3 chú tiểu; toàn bộ được cấp 15 quan tiền, 1 phương gạo trắng, 20 phương lương thực mỗi tháng.
Ngoài ra, các chùa còn được cấp Sái phu - những người chuyên lo việc bảo vệ, quét dọn và trông coi chùa. Họ được miễn binh dịch, miễn sai phái nhưng vẫn phải nộp thuế thân theo lệ.

Các vị Tăng Cang tiêu biểu
Vị Hòa thượng đầu tiên được phong chức Tăng Cang dưới triều Nguyễn là Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng (1735–1835).
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Thừa Thiên phủ chép: “Năm Gia Long thứ 13, vua triệu Hoằng về kinh, cấp cho chức Tăng Cang trụ trì chùa Thiên Mụ, quán thống Tăng chúng.”
Còn Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng tọa Mật Thể ghi: “Niên hiệu Gia Long năm Ất Hợi (1815), vua sắc sửa lại chùa Thiên Mụ và triệu ngài Mật Hoằng vào kinh, cấp bằng Tăng Cang.”
Chế độ phong chức Tăng Cang cho các vị tôn đức Tăng được duy trì cho đến triều vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn.
_______
Tài liệu tham khảo
1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6 – Bộ Lễ.
2. Nội các triều Nguyễn, tập 4, tr.97–103.
3. Nội các triều Nguyễn, tập 5, tr.181–182.
4. Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 4, tr.187–188.
5. Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 8, tr.193–199.
Nguồn: Việt Nam Phong Hóa
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thiền tông Việt Nam qua Thiền sư Cứu Chỉ
Nghiên cứuSư họ Đàm, làng Phù Đàm, phủ Châu Minh (tỉnh Bắc Ninh). Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho sách Phật đều đọc. Một hôm cầm sách tự than: ‘Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở thế tục chẳng phải là pháp giải thoát. Chỉ có Phật giáo chẳng kể có không, có thể dứt sanh tử; nhưng phải siêng tu giữ giới, cầu thiện tri thức ấn chứng mới được’.
Pháp môn Tịnh độ ở Nam bộ Việt Nam
Nghiên cứuDo bối cảnh địa-lịch sử và địa-văn hóa đặc thù ở Nam bộ Việt Nam, đã xuất hiện khá nhiều hội đoàn, đạo giáo có thực hành pháp môn Tịnh độ so với các vùng miền khác trong cả nước; tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tông phái Tịnh độ riêng biệt.
Tâm giải thoát là tiêu chuẩn duy nhất xác chứng một vị A-la-hán
Nghiên cứuTrong suốt lịch sử Phật giáo, hình ảnh bậc A-la-hán luôn là biểu tượng tối thượng của con đường giải thoát, là đích đến của Giới Định Tuệ, là cánh cửa mở ra Niết-bàn không còn tái sinh. Nhưng để hiểu đúng về A-la-hán, người học Phật phải vượt qua mọi lớp khái niệm vay mượn, mọi tưởng tri thần thoại, để trở về với chân nghĩa mà Đức Thế Tôn từng dạy trong các kinh tạng nguyên thủy.
Sự ra đời và hoạt động của Giáo hội Lục hòa tăng
Nghiên cứuSự ra đời của Giáo hội lục hoà tăng nhằm “duy trì nền tảng cổ truyền và thực hiện nền giáo dục Phật lý mà nghìn xưa đức Phật đã dạy.
Xem thêm














