Không tham giữa mê đắm

Kinh Pháp Cú, kệ số 199, gợi ý về một lối sống sáng suốt an lạc, nhờ hiểu rõ sự nguy hại của lòng tham và nỗ lực nhiếp phục tâm tham dục:

Vui thay chúng ta sống,

Không rộn (tham) giữa rộn ràng (tham dục);

Giữa những người bận rộn,

Ta sống không rộn ràng (1).

Rộn ràng hay bận rộn là đồng nghĩa với lòng tham, vì tham hay dục vọng là động cơ khiến cho tâm thức thường xuyên rơi vào dao động và mê loạn, cuộc sống trở nên bận rộn, đời sống thành ra quay cuồng (2). Tham là rộn ràng, là bận rộn, là quay cuồng, lo lắng và phiền não; vì vậy, sống không tham tức là sống thanh thản, nhàn hạ, thư thái, an lạc, không phiền muộn. Đó là ý tứ lời Phật khuyên: “Vui thay sống không tham”, một nếp sống sáng suốt an lạc, được mệnh danh là có trí tuệ, có trí tuệ rộng lớn, bước vào giới vức minh kiến, đầy đủ trí tuệ (3).

Tham (ràga) hay tham dục (kàmaràga) là một hiện tượng tâm lý phát sinh do duyên năm dục trưởng dưỡng (panca-kàmagunà), tịnh tướng (subhanimitta) hay dục giới (kàmadhàtu), tức các đối tượng khả ý, hấp dẫn như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu hay tiền tài vật chất (tài), danh vọng quyền lực (danh), sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy) tác động vào tâm thức khiến tập quán ham muốn khởi lên và đi đến tăng trưởng. Đó là tâm lý thích thú, mê say, muốn ôm ấp, nắm giữ những gì mình có và khao khát, muốn có được, đạt được, lấy cho được những gì thuộc sở hữu của người khác. Đạo Phật gọi các tâm lý thích thú và khao khát như vậy là tham (ràga), diễn ra theo hai cấp độ, tham dục (abhijjhà) và tà tham (visamalobha), tức sự diễn tiến lớn mạnh của lòng tham, từ việc thích thú mê đắm những gì mình có (tham dục) đến việc khao khát muốn chiếm hữu những gì thuộc về người khác (tà tham). Kinh Phật nói rằng thế gian là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho dục vọng (4), vì dầu cho trời có mưa xuống bằng tiền vàng thì lòng tham muốn của con người cũng không bao giờ thỏa mãn (5).

Không tham giữa mê đắm  1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Do tính chất nguy hại khó lường và khó kiểm soát của dục vọng, kinh Phật lưu nhiều lời dạy của bậc Giác ngộ cảnh tỉnh về sự nguy hiểm (àdìnava) của lòng tham:

“Cái gì là tham, này các Tỳ-kheo, cái ấy là bất thiện. Ai với lòng tham có làm điều gì về thân, về lời, về ý, cái ấy là bất thiện. Với ai có lòng tham, bị lòng tham chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: ‘Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh’, cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh ra từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, khởi lên nơi người ấy” (6).

“Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.

Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi tham được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.

Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi tham được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.

Tham, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn” (7).

Cụ thể hơn, chính lòng tham hay dục vọng là nguyên nhân của lối sống vất vả, lao nhọc, toan tính, lo âu, hy vọng, thất vọng, sầu não, vị kỷ, tranh chấp, chiến tranh, xâm lăng, tàn hại lẫn nhau giữa con người và con người, giữa các dòng tộc, giữa các giai cấp, giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa, khiến cho thế giới thường xuyên rơi vào khủng hoảng bất an, đời sống nhân loại không ngừng bị đe dọa tước đoạt; hơn thế, lòng tham còn là động lực đưa đẩy con người rơi vào các số phận hiểm họa sau khi rời khỏi thế giới này:

“Này các Tỳ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm của các dục? Ở đây, này các Tỳ-kheo, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài bò sát, bị chết đói chết khát. Này các Tỳ- kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

Này các Tỳ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy,tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản ấykhông đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền, khócthan, đấm ngực, mê man bất tỉnh: ‘Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả’…

Này các Tỳ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các tài sản ấy được đến tay mình, vì phải hộ trì các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: ‘Làm sao các vua chúa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?’. Dầu vị ấy hộ trì như vậy, giữ gìn như vậy, vua chúa vẫn cướp đoạt, trộm cướp vẫn cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp đoạt các tài sản ấy. Vị ấy than vãn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: ‘Cái đã thuộc của ta, nay ta không có nữa’...

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát- đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong...

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân..., họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong...

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân..., họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong...

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân..., họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi... họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây người ấy đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong...

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, do dục làm nhân..., họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỳ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân” (8).

Nhận thức rõ các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn (9), các dục là vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh (10), là bước đi quan trọng trong tiến trình tu tập, nỗ lực nhiếp phục lòng tham, thực hiện nếp sống giải thoát an lạc - “Không tham giữa dục vọng”. Đạo Phật bảo cho mọi người các dục có vị ngọt, có công năng kích động và nuôi lớn lòng tham nhưng cũng lưu nhắc mọi người về sự nguy hiểm của các dục, tức sự lớn mạnh của dục vọng khiến cho con người trở nên mê say mù lòa, không còn tỉnh táo sáng suốt, không phân biệt được đâu là đúng-sai, thiện-ác, lạc-khổ, lợi-hại, rơi vào các việc làm sai trái bất chánh, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, tạo phiền não khổ đau cho mình và gây phiền lụy khổ đau cho người khác. Hẳn nhiên, có nhận thức cho thật đúng và rốt ráo về hậu quả nguy hại của các dục thì mới sinh tâm nhàm chán, sợ hãi mà kiên quyết rời bỏ và nhiếp phục dục tham. Đây là hướng đi tuyệt đối an lạc mà đạo Phật nhất mực đề cao, đồng thời cung cấp các giải pháp thiết thực để cho mọi người dễ dàng thực hiện.

Trước hết, đạo Phật khuyên mọi người mở tâm bố thí như là giải pháp hạn chế và hóa giải lòng tham. Bố thí nghĩa là đem cho người khác những gì mình có, một việc làm giúp cho người khác khắc phục được các tình huống khó khăn, tạo lập nhiều công đức thiện cảm giữa con người và con người, nhưng căn bản đó là hành động giúp giải tỏa và đối trị lòng tham trong chính mình. Nếu tham làm cho con người điên đảo khổ não thì bố thí chính là nếp sống giúp cho con người tìm thấy thanh thản an lạc. Bố thí có khả năng đối trị và hóa giải lòng tham bởi bản chất của lòng tham là ích kỷ, hẹp hòi, muốn ôm vào, mong có thêm; trong khi bố thí mang tính chất vị tha, rộng lượng, buông xả, thích chia sẻ. Kinh Phật khuyên như vầy:

“Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử sống ở gia đình, tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích san sẻ vật bố thí. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ bố thí”.

Người con Phật được khuyên sống với tâm luôn luôn rộng mở, cảm nhận nỗi vất vả khó nhọc của người khác mà khởi tâm bố thí rộng rãi, bố thí với bàn tay rộng mở, với tâm ưa thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích san sẻ vật bố thí. Đó là lẽ sống sáng suốt mang lại nhiều hân hoan thiện cảm cho người khác, đồng thời đem đến cho mình niềm hoan hỷ lợi lạc, cơ bản do đối trị được lòng tham, thoát khỏi các phiền toái sai lầm của tâm vị kỷ hẹp hòi. Nữ cư sĩ Visakhà, đệ nhất về hạnh bố thí trong hàng tín nữ đệ tử của Thế Tôn, trình bạch với bậc Đạo sư kinh nghiệm lợi lạc của tâm bố thí cúng dường:

“Bạch Thế Tôn, khi con được biết chư Tỳ-kheo thọ nhận các vật dụng do con cúng dường chứng được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất lai hoặc A-la-hán, bấy giờ hân hoan khởi lên trong tâm con; do hân hoan nên hỷ sanh; do hỷ nên thân được khinh an; do thân khinh an nên cảm giác lạc thọ; với lạc thọ, tâm được định tĩnh, và như vậy con được tu tập về (ngũ) căn, con được tu tập về (ngũ) lực, con được tu tập về (thất) giác chi” (11).

Bên cạnh hạnh bố thí, đạo Phật cũng khuyên mọi người phát tâm giữ giới, tuân thủ nếp sống thiểu dục tri túc, như là giải pháp nhằm khắc phục và hóa giải lòng tham. Giữ giới hay tuân thủ lối sống thiểu dục tri túc nghĩa là tuân giữ một lẽ sống chân chánh hiền thiện, không bị dục vọng chi phối, tôn trọng sự sống và hạnh phúc của người khác, thể hiện qua việc từ bỏ các hành vi hay việc làm sai trái xấu ác như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, uống rượu. Đức Thế Tôn hỏi các vị Kàlàmà:

“ Các người nghĩ thế nào, này các Kàlàmà! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh lâu dài cho người ấy?”.

“Bất hạnh, bạch Thế Tôn”.

“Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâudàihaykhông?”.

“Thưa có, bạch Thế Tôn”.

“Các người nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh lâu dài cho người ấy?”.

“Hạnh phúc, bạch Thế Tôn”.

“Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có làm người ấy được hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?”.

“Thưa có, bạch Thế Tôn”. (12)

Tham là động cơ của các hành vi sai trái, xấu ác, vị kỷ như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, uống rượu, đưa đến bất hạnh cho mình và khổ đau cho người khác; vì vậy, việc giữ giới hay tuân thủ nếp sống thiểu dục tri túc, tức từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ uống rượu, chính là lẽ sống ly tham, không bị dục tham chi phối, là lẽ sống hạnh phúc an lạc, thoát ly mọi phiền muộn khổ đau. Bậc Giác ngộ xác chứng niềm hạnh phúc cao quý của lẽ sống không tham, thể hiện qua việc tuân thủ các thiện giới:

“Này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, đoạn tận lấy của không cho, đoạn tận tà hạnh trong các dục, đoạn tan nói láo, đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức, là nguồn nước thiện... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc” (13).

Trên nền tảng của lối sống phát tâm bố thí và giữ giới, người Phật tử có được nội tâm thanh thản và trong sáng, dễ dàng đi sâu vào đời sống hành Thiền hay phát triển tâm thức (cittabhavanà), thành tựu các Thiền chứng, thực nghiệm các Thiền lạc, nhờ đó đối trị và hóa giải được lòng tham hay sự mê đắm các lạc thú thế gian. Đây gọi là phương pháp chuyển hóa và nhiếp phục dục tham nhờ hành Thiền, tức dùng Thiền lạc đối trị dục lạc, khiến lòng tham được chặn đứng, được hóa giải.

Đức Phật nói cho chúng ta, sở dĩ Thiền đối trị được tâm tham dục hay lòng ham muốn các khoái lạc vật chất ấy là bởi hành Thiền hay nỗ lực thanh lọc và chuyển hóa nội tâm làm phát sinh các cấp độ an lạc sâu lắng thuộc tăng thượng tâm gọi là “hỷ lạc do ly dục sinh”, “hỷ lạc do định sinh”, “xả niệm lạc trú”, “xả niệm thanh tịnh”(14). Chính Thiền lạc hay các cấp độ an lạc thuộc tăng thượng tâm này đưa đến định tâm (ekaggatà), mặt khác có khả năng đối trị lòng đam mê dục lạc, tức sự mê đắm các thú vui vật chất. Nói cách khác, khi tâm được an trú và trở nên tỉnh thức trên một đối tượng (tùy niệm), không dao động và tán loạn, thì bấy giờ tâm được trong sáng và định tĩnh, các dục vọng hay tham-sân-si không có cơ hội dấy khởi ám ảnh tâm thức, gọi là tâm đạt được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm (dục vọng, tham-sân-si hay năm triền cái) được đoạn tận (15).

Thế Tôn dạy cho nam cư sĩ Mahànàma cách thức đối trị tham dục hay tham-sân-si nhờ hành Thiền hay thực tập pháp môn tùy niệm:

“Ở đây, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Như Lai: ‘Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’. Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Như Lai. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh.

Lại nữa, này Mahànama, Ông hãy tùy niệm Pháp..., hãy tùy niệm Tăng..., hãy tùy niệm Giới của mình..., hãy tùy niệm Thí của mình... Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm chư Thiên... Này Mahànama, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm chư Thiên, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ duyên chư Thiên. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc tho, tâm được định tĩnh” (16).

Như vậy, bố thí, trì giới và hành Thiền là các pháp môn tu tập có công năng đối trị lòng tham, khiến cho dục vọng không có cơ hội dấy khởi và tăng trưởng. Lẽ tất nhiên, ở các cấp độ tu tập này, lòng tham chỉ mới được ngăn chặn và giảm thiểu phần nào, chứ chưa được hoàn toàn trừ diệt. Sự kiện dứt trừ lòng tham hay dục vọng chỉ xảy ra khi con người nhận ra bản chất khổ đau của ngũ uẩn và quyết tâm dứt bỏ mọi ý tưởng muốn kéo dài hay cải thiện hiện hữu. Kinh Trung Bộ nhấn mạnh lòng tham (ràga) hay dục hỷ (nandi) là gốc của mọi hiện hữu khổ đau, cội nguồn của sinh tử luân hồi, cần phải liễu tri và đoạn tận (17). Nói cách khác, phải có trí tuệ thấu rõ bản chất khổ đau của sự kiện tái sanh trong các cảnh giới sinh tử luân hồi, hiểu rõ tính chất huyễn hoặc của dục vọng thì lòng tham mới hoàn toàn tiêu trừ. Đây chính là biện pháp đoạn tận lòng tham, đưa đến chấm dứt khổ đau sinh tử luân hồi, nhờ hành sâu Thiền định và phát triển trí tuệ.

Tham hay dục hỷ là gốc của luân hồi khổ đau, vì tham làm cho chúng sinh mê mờ mù lòa, “tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm”(18). Do vậy, muốn thoát khỏi khổ đau luân hồi, con người cần phải nuôi dưỡng trí tuệ, nghĩa là “tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn” (19). Đây chính là tiếng nói của trí tuệ hướng đến dứt trừ lòng tham, là hướng đi của tuệ giác giải thoát đưa đến Niết-bàn.

Nhìn chung, lòng tham hay dục vọng là căn nguyên của mọi bất hạnh khổ đau không ngừng xảy ra cho con người, đời này và nhiều đời sau, khiến cho con người mãi mãi bị giam cầm trong ngục tù sinh tử luân hồi, không giải thoát, không thanh thản, không an lạc. Tham một chút thì mời gọi phiền não khổ đau một chút; tham càng nhiều thì phiền não khổ đau càng chồng chất. Vì thế mà bậc Giác ngộ mới khuyên dạy mọi người học cách sống ly tham, nỗ lực nhiếp phục tham, để thực nghiệm hạnh phúc an lạc, thoát ly phiền não khổ đau, gọi là “Vui thay sống không tham”.

Người con Phật được khuyên thực hành bố thí, trì giới, tu tập Thiền định và phát triển trí tuệ nhằm từng bước hạn chế, nhiếp phục và đi đến dứt trừ lòng tham. Với lẽ sống có nhận thức sáng suốt và tinh cần tu tập như vậy, người Phật tử, một mặt, tìm thấy tịnh tín hân hoan trong đời sống hàng ngày; mặt khác, làm vơi dần lòng tham, căn nguyên của phiền muộn khổ đau, cho đến lúc hoàn toàn tiêu trừ.

Chú thích:

1. Kinh Pháp Cú, kệ số 199.

2. Kinh Pháp Cú, kệ số 35-36.

3. Kinh Bốn nghiệp công đức, Tăng Chi Bộ.

4. Kinh Ratthapàla, Trung Bộ.

5. Kinh Pháp Cú, kệ số 186.

6. Kinh Các căn bản bất thiện, Tăng Chi Bộ.

7. Kinh Channa, Tăng Chi Bộ.

8. Đại kinh Khổ uần, Trung Bộ.

9. Tiểu kinh Khổ uẩn, Kinh Ví dụ con rắn, Kinh Màgandiya, Trung Bộ.

10. Kinh Bất động lợi ích, Trung Bộ.

11. T.W. Rhys Davids & H. Oldenberg, Vinaya Texts, Part II, tr.223-224.

12. Kinh Các vị ở Kesaputta, Tăng Chi Bộ.

13. Kinh Nguồn nước công đức, Tăng Chi Bộ.

14. Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung Bộ.

15. Kinh Các lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ.

16. Kinh Mahànàma, Tăng Chi Bộ.

17. Kinh Pháp môn căn bản, Trung Bộ.

18. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

19. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Đứng đúng chỗ của mình

Phật pháp và cuộc sống 16:23 28/11/2025

Cuộc đời con người hầu như chỉ xoay quanh ba ý niệm: hơn người, bằng người, hoặc thua người.

Ngôi chùa quê tôi

Phật pháp và cuộc sống 10:25 28/11/2025

Những người xa quê hương, không biết họ có suy nghĩ gì mỗi khi nhớ về quê quán, hình ảnh nào làm cho họ cảm động và đáng nhớ nhất? Chẳng hạn như dòng sông, con đò bến nước, hay những món ăn dân dã như dĩa rau muống luộc, bát nước chè xanh…

Bốn bệnh

Phật pháp và cuộc sống 09:57 28/11/2025

Chỉ Bệnh/ Đè nén các vọng tưởng/ Miễn cưỡng bắt dừng lại/ Muốn biển không nổi sóng/ Thanh Văn dụng cách này

Mùa bình yên!

Phật pháp và cuộc sống 09:51 28/11/2025

Khi ánh nắng sớm mang theo chút hơi lạnh của những ngày cuối thu, lòng người cũng trở nên thâm trầm hơn với những khoảnh khắc dừng lại ở một góc nhỏ nào đó và cầm trên tay một quyển sách hay, tạm quên đi cái ồn ã vốn quen thuộc hằng ngày, để sống trọn vẹn cho mình trong từng giây phút.

Xem thêm