Kinh Tứ Niệm Xứ (bản tinh gọn)

Tôi nghe như vầy, hồi đức Phật ở Kammassadhamma, khu dân xứ Kuru. Hôm ấy Phật gọi các tỳ kheo, dạy rằng: “Này các tỳ kheo, đây là con đường độc lộ, giúp chúng sanh thành tựu thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết Bàn, đó là bốn phép quán niệm. Bốn phép quán niệm ấy gì?
Một là quán thân thể như thân thể
Này các tỳ kheo! Các thầy hãy an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể, tinh cần, sáng suốt và tỉnh giác, vượt thoát mọi tham dục, ưu phiền, vướng mắc trong cuộc đời.
Các thầy hãy an trú trong phép quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, tinh cần, sáng suốt và tỉnh giác, vượt thoát mọi tham dục, ưu phiền, vướng mắc trong cuộc đời.
Các thầy hãy an trú trong phép quán niệm tâm thức nơi tâm thức, tinh cần, sáng suốt và tỉnh giác, vượt ra ngoài mọi tham dục, ưu phiền, vướng mắc trong cuộc đời.
Các thầy hãy an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, tinh cần, sáng suốt và tỉnh giác, vượt ra ngoài mọi tham dục, ưu phiền, vướng mắc trong cuộc đời.
Vị tỳ kheo đi đến khu rừng, gốc cây, hoặc nhà vắng ngồi kiết già, giữ thân ngay thẳng và lập chánh niệm trước mặt. Khi thở vào[1] với ý thức[2] minh mẫn là mình đang thở vào; thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra. Thở vào một hơi dài ý thức rằng đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài ý thức rằng đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi ngắn, ý thức rằng đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, ý thức rằng đang thở ra một hơi ngắn. Cũng như khi xoay một vòng dài, người thợ tiện khéo tay ý thức rằng mình đang xoay một vòng dài, và khi xoay một vòng ngắn, ý thức rằng mình đang xoay một vòng ngắn. Vị ấy tu tập như sau:
“Khi đang thở vào và có ý thức rõ ràng về cả thân thể. Khi đang thở ra và có ý thức rõ ràng về cả thân thể.”
“Khi đang thở vào và làm cho sự vận hành trong thân thể trở nên an tịnh. Khi đang thở ra và làm cho sự vận hành trong thân thể trở nên an tịnh.”
Cứ như thế, vị ấy an trú trong sự quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc quán niệm bên trong, bên ngoài thân thể ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sanh khởi nơi thân thể, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi thân thể, hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi thân thể. Vị ấy quán niệm: “Có thân thể đây”, để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể đó, và như vậy vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ một thứ gì trong đời. Đó là quán niệm thân thể nơi thân thể.
Khi đi, cũng ý thức rõ ràng là mình đang đi; khi đứng, khi ngồi, khi nằm ý thức rõ ràng là mình đang đứng, ngồi, nằm. Thân thể mình đang trong tư thế nào vị ấy cũng ý thức rõ ràng về tư thế ấy của thân thể.
Khi đi tới hoặc đi lui, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ của mình về sự đi tới hay đi lui ấy; khi nhìn trước nhìn sau, cúi xuống, duỗi lên, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ ấy; khi mặc áo ca sa, mang bình bát, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ ấy; khi ăn cơm, uống nước, nhai thức ăn, nếm thức ăn, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi đại tiện, tiểu tiện, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hoặc im lặng, vị ấy cũng ý thức sáng tỏ ấy.
Vị ấy lại quán niệm chính thân thể này từ gót chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh: thuộc về thân thể ta, này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu.
Như có một cái bao tải đựng đủ các loại ngũ cốc, như gạo lức, gạo hẻo rằng, hạt lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng và hai đầu bao tải có thể mở ra. Một người có mắt tốt, khi mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng trong bao. Đây là gạo lức, gạo hẻo rằn, đây là hạt lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu ngự, đây là hạt mè, đây là gạo trắng. Cũng như thế, khi quán sát về chính thân thể của mình, vị ấy thấy rõ mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu, và từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh thuộc về thân thể ta, đây là tóc, đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu.
Lại nữa, trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, vị ấy cũng quán chiếu những thành phần tạo nên chính thân thể ấy rằng: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió.”
Như một đồ tể rành nghề làm thịt một con bò và ngồi giữa ngã tư và xẻ con bò ra thành nhiều phần, cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể mình, vị ấy cũng quán chiếu những thành phần tạo nên chính thân thể: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió[1].”
Lại ví như khi thấy một xác chết bị quăng bỏ vào bãi tha ma đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, trương sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị ấy quán chiếu sự thật vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không cách nào tránh được.”[2]
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, bị quạ rỉa, bị diều hâu, kền kền và chó sói rừng ăn và bị các loài giòi bọ rúc rỉa, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào nhưng vẫn còn vướng máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào và cũng không còn vướng chút máu nào, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương rời rạc đó đây, chỗ này là xương tay, chỗ nọ là xương ống chân, chỗ kia là xương bắp vế, chỗ kia nữa là xương mông, xương sống và đầu lâu…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương trắng màu vỏ ốc…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương khô, để hơn một năm trên bãi…
Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương mục tan thành bụi…
Vị tỳ kheo quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh được.”
Cứ như thế, vị ấy an trú trong sự quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài thân thể ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sanh khởi nơi thân thể, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi thân thể, hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm: “Có thân thể đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời. Đó là quán niệm như thật về thân thể.
Hai là quán cảm thọ như cảm thọ
Này các tỳ kheo! Cách quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ như thế nào?
Mỗi khi có một cảm thọ sung sướng[1] xuất hiện, vị ấy ý thức rõ ràng rằng: “Đang có mặt một cảm thọ sung sướng.”
Mỗi khi có một cảm thọ khổ đau[2], vị ấy ý thức rằng: “Đang có mặt một cảm thọ khổ đau.”
Mỗi khi có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau[3], vị ấy ý thức rằng: “Đang có mặt một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau.”
Khi có một cảm thọ khoái lạc vật chất, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ khoái lạc vật chất.
Khi có một cảm thọ khoái lạc tinh thần, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ khoái lạc tinh thần.
Khi có một cảm thọ khổ đau vật chất, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ khổ đau vật chất.
Khi có một cảm thọ khổ đau tinh thần, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ khổ đau tinh thần.
Khi có một cảm thọ vật chất không khoái lạc cũng không khổ đau, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ vật chất không khoái lạc cũng không khổ đau.
Khi có một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau, vị ấy ý thức rằng mình đang có một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau.
Cứ như thế, vị ấy an trú trong sự thường trực quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài cảm thọ ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự thường trực quán niệm quá trình sanh khởi của cảm thọ[1], hoặc quán niệm quá trình hủy diệt của cảm thọ[2], hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt của cảm thọ. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có cảm thọ đây”, để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời. Đó là quán niệm như thật về cảm thọ.
Ba là quán tâm thức như tâm thức
Này các tỳ kheo! Các thầy an trú trong phép quán niệm tâm thức nơi tâm thức như thế nào?
Mỗi khi có nội tâm tham dục, vị ấy ý thức rõ ràng là nội tâm có tham dục. Mỗi khi có nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục.
Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị ấy ý thức rõ ràng là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận.
Mỗi khi tâm thức mình si mê, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm thức mình đang si mê. Mỗi khi tâm thức mình không si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không si mê.
Mỗi khi tâm thức mình có sự tập trung, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm thức mình có tập trung. Mỗi khi tâm thức mình bị tán loạn, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình bị tán loạn.
Mỗi khi tâm thức mình trở nên khoáng đạt rộng mở, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm thức mình trở nên khoáng đạt rộng mở. Mỗi khi tâm thức mình trở nên hạn hẹp, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình trở nên hạn hẹp.
Mỗi khi tâm thức mình đạt đến trạng thái cao thượng, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm thức mình đạt đến trạng thái cao thượng. Mỗi khi tâm thức mình không đạt đến trạng thái cao thượng, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không đạt đến trạng thái cao thượng.
Mỗi khi tâm thức mình có sự định tĩnh, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm thức mình có sự định tĩnh. Mỗi khi tâm thức mình không có định, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không có định.
Mỗi khi tâm có sự giải thoát, vị ấy ý thức rõ ràng rằng tâm mình có sự giải thoát. Mỗi khi tâm thức mình bị ràng buộc, không có sự giải thoát, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không có giải thoát.
Cứ như thế, vị tỳ kheo an trú trong sự quán niệm tâm thức nơi tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sanh khởi nơi tâm thức, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có tâm thức đây”, để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời. Đó là quán niệm như thật về tâm thức.
Bốn là quán các pháp như các pháp
Này các tỳ kheo! Các thầy an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức như thế nào?
Trước hết hãy quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm sự ngăn che, trói buộc[1].
Khi có tâm ái dục, vị ấy ý thức rõ ràng rằng mình có ái dục. Khi không có ái dục, vị ấy ý thức rằng mình không có ái dục. Khi một niệm ái dục chưa sanh khởi nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đã sanh đang được trừ diệt, vị ấy ý thức được sự trừ diệt ấy. Khi một niệm ái dục đã được trừ diệt và không còn tiếp tục sanh ra nữa, vị ấy cũng ý thức rõ được điều đó.
Mỗi khi tâm có sân hận, nóng nảy vị ấy ý thức rõ ràng rằng mình có sân hận, nóng nảy. Khi không có sân hận, vị ấy ý thức rằng mình không có sân hận. Khi một niệm sân hận chưa sanh nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm sân hận đã sanh khởi đang được trừ diệt, vị ấy ý thức được sự trừ diệt ấy. Khi một niệm sân hận đã được trừ diệt và không còn có thể tiếp tục sanh ra nữa, vị ấy cũng ý thức rõ về điều đó.
Khi có sự mê muội, ngủ gà ngủ gật, vị ấy ý thức rõ ràng rằng mình có mê muội ngủ gà ngủ gật. Khi không có mê muội ngủ gà ngủ gật, vị ấy ý thức rằng mình không có mê muội, ngủ gà ngủ gật. Khi sự mê muội và buồn ngủ chưa phát sanh nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đã sanh khởi đang được trừ diệt, vị ấy ý thức được sự trừ diệt ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đã được trừ diệt và không còn có thể trở lại nữa, vị ấy cũng ý thức rõ về điều đó.
Khi tâm có sự dao động bất an và hối hận, vị ấy ý thức rõ ràng rằng mình đang có sự dao động bất an và hối hận. Khi không có dao động bất an và hối hận, vị ấy ý thức rằng mình không có dao động bất an và hối hận. Khi dao động bất an và hối hận chưa phát sanh mà nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi dao động bất an và hối hận đã sanh đang được trừ diệt, vị ấy ý thức được sự trừ diệt ấy. Khi dao động bất an và hối hận đã được trừ diệt và không còn trở lại nữa, vị ấy cũng ý thức rõ về điều đó.
Khi tâm có sự nghi ngờ, vị ấy ý thức rõ ràng rằng mình đang có sự nghi ngờ. Khi không có nghi ngờ, vị ấy ý thức rằng mình không có nghi ngờ. Khi nghi ngờ chưa sanh khởi mà nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức được sự sanh khởi đó. Khi nghi ngờ đã phát sanh và đang được trừ diệt, vị ấy ý thức được sự trừ diệt đó. Khi nghi ngờ đã được trừ diệt và không còn sanh ra nữa, vị ấy cũng ý thức rõ điều đó.
Cứ như thế, vị ấy an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài đối tượng tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng tâm thức ấy. Vị ấy an trú trong sự thường trực quán niệm quá trình sanh khởi nơi đối tượng tâm thức, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi đối tượng tâm thức, hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi đối tượng tâm thức. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có đối tượng tâm thức đây”, để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của đối tượng tâm thức đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời. Đó là quán niệm như thật về đối tượng của tâm thức.
Vị ấy quán niệm tiếp về năm nhóm tụ hợp thành con người còn dưới ảnh hưởng của sự bám víu[1], như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Đây là thân thể vật chất[2]; đây là sự phát sanh của thân thể vật chất, và đây là sự hủy diệt của thân thể vật chất.
Đây là cảm thọ[3]; đây là sự phát sanh của cảm thọ, và đây là sự hủy diệt của cảm thọ.
Đây là tri giác[4]; đây là sự phát sanh của tri giác, và đây là sự hủy diệt của tri giác.
Đây là tâm tư[5]; đây là sự phát sanh của tâm tư, và đây là sự hủy diệt của tâm tư.
Đây là nhận thức[6]; đây là sự phát sanh của nhận thức, và đây là sự hủy diệt của nhận thức.
Vị ấy quán niệm tiếp về sáu giác quan và sáu loại đối tượng, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Vị ấy ý thức rõ ràng về mắt và đối tượng của mắt là hình sắc và về những nội kết[7] tạo nên do mắt và hình sắc. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy ý thức rõ ràng về mũi và đối tượng của mũi là mùi hương và về những nội kết tạo nên do mũi và mùi hương. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy thức rõ ràng về lưỡi và đối tượng của lưỡi là vị nếm và về những nội kết tạo nên do lưỡi và vị nếm. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy ý thức rõ ràng về thân và đối tượng của thân là xúc chạm và về những nội kết tạo nên do thân và xúc chạm. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy ý thức về ý và đối tượng của ý là pháp trần và về những nội kết tạo nên do ý tiếp xúc với pháp trần. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sanh nay đang được trừ diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được trừ diệt và không còn tái sanh nữa.
Vị ấy quán niệm tiếp về bảy yếu tố của sự giác ngộ[1] như là đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Khi có chánh niệm, vị ấy ý thức rõ ràng là mình có chánh niệm. Vị ấy quán chiếu rằng: tâm mình có chánh niệm. Khi không có chánh niệm, vị ấy ý thức là mình không có chánh niệm. Vị ấy có ý thức về chánh niệm chưa phát sanh nay đang phát sanh, về chánh niệm đã phát sanh nay đang thành tựu viên mãn.
Khi có yếu tố trạch pháp[2], vị ấy ý thức rõ ràng là mình đang có trạch pháp. Vị ấy quán chiếu rằng, tâm mình đang có sự quán chiếu. Khi không có sự quán chiếu, vị ấy ý thức là mình không có sự quán chiếu. Vị ấy có ý thức về một tác dụng quán chiếu chưa phát sanh nay đang phát sanh, về một tác dụng quán chiếu đã phát sanh nay đang thành tựu viên mãn.
Khi có tinh tấn[1], vị ấy ý thức rõ ràng là mình đang có sự tinh tấn. Vị ấy quán chiếu rằng, tâm mình đang tinh tấn. Khi không có sự tinh tấn, vị ấy ý thức là tâm mình không có tinh tấn. Vị ấy có ý thức về một sự tinh tấn chưa phát sanh nay đang phát sanh, về một sự tinh tấn đã phát sanh nay đang đi đến thành tựu viên mãn.
Khi có yếu tố hỷ[2], vị ấy ý thức rõ ràng là mình đang có hỷ, quán chiếu rằng, tâm mình đang an vui. Khi không có an vui, vị ấy ý thức là tâm mình không an vui. Vị ấy có ý thức về niềm an vui chưa phát sanh nay đang phát sanh, về niềm an vui, đã phát sanh nay đang đi đến thành tựu viên mãn.
Khi có sự khinh an[3], vị ấy ý thức rõ ràng là mình có khinh an. Vị ấy quán chiếu rằng, tâm mình đang nhẹ nhõm. Khi không có nhẹ nhõm, vị ấy ý thức là mình không nhẹ nhõm. Vị ấy có ý thức về sự nhẹ nhõm chưa phát sanh nay đang phát sanh, về sự nhẹ nhõm đã phát sanh nay đang đi đến thành tựu viên mãn.
Khi có định, vị ấy ý thức rõ ràng là mình có định. Vị ấy quán chiếu rằng: tâm mình đang có định. Khi không có định, vị ấy ý thức là tâm mình không định. Vị ấy có ý thức về định tâm chưa phát sanh nay đang phát sanh, về định tâm đã phát sanh nay đang đi đến thành tựu viên mãn.
Khi có yếu tố xả[4], vị ấy ý thức rõ ràng là mình có sự buông xả. Vị ấy quán chiếu rằng, tâm mình có buông xả. Khi không có buông xả, vị ấy ý thức là mình không có buông xả. Vị ấy ý thức về sự buông xả chưa phát sanh nay đang phát sanh, về sự buông xả đã phát sanh nay đang được thành tựu viên mãn.
Cuối cùng, vị ấy quán niệm về bốn sự thật cao quý[5] như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Khi khổ đau có mặt, vị ấy quán niệm: “Đây là khổ đau.”
Khi biết rõ nguyên nhân tạo thành khổ đau, vị ấy quán niệm: “Đây là nguyên nhân tạo thành khổ đau.”
Khi khổ đau có thể được chấm dứt, vị ấy quán chiếu: “Khổ đau có thể được chấm dứt.”
Khi đã thấy được con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, vị ấy quán niệm: “Đã có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”
Cứ như thế, vị ấy chú tâm an trú trong sự quán niệm về bốn sự thật cao quý như là đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng tâm thức ấy. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sanh khởi nơi đối tượng tâm thức ấy, hoặc quá trình hủy diệt nơi đối tượng tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả quá trình sanh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi đối tượng tâm thức ấy. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có bốn sự thật cao quý đây”, để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách ung dung tự tại, không bị dính mắc vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời. Đó là quán niệm như thật về bốn sự thật cao quý.
Này các tỳ kheo! Vị nào thực hành bốn phép quán niệm như trên trong bảy năm, người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí[1] ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được thánh quả không còn trở lại[2].
Có khi không cần tới bảy năm, vị nào thực hành đúng bốn phép quán niệm này trong sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm, thì cũng có thể đạt được quả vị chánh trí, ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được thánh quả không còn trở lại.
Có khi không cần tới một năm, vị nào thực hành đúng bốn phép quán niệm này trong bảy tháng, hoặc sáu tháng, hoặc năm tháng, hoặc bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng hay nửa tháng, thì cũng có thể đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được thánh quả không còn trở lại.
Có khi không cần đến nửa tháng, vị nào thực hành đúng bốn phép quán niệm như thế trong vòng một tuần, người ấy cũng có thể đạt được quả vị chánh trí ngay trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được thánh quả không còn trở lại.
Vì vậy mà ta nói rằng: “Đây là con đường độc lộ, có thể giúp chúng sanh thành tựu thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết Bàn, chính là con đường của bốn phép quán niệm.”
Đức Phật đã dạy như vậy, các vị tỳ kheo vô cùng hoan hỷ tin nhận và phụng hành.
Chú thích:
[1] Trích trong “Kinh Tứ niệm xứ thực giải” của Thích Hạnh Tuệ &Thích Thanh Quế
[2] Hoặc dùng từ “hít vào”
[3] Ý thức rõ ràng có thể thay bằng chữ tuệ tri
[4] Tức tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong
[5] Đây là cách quán tử thi
[6] Tức lạc thọ
[7] Tức khổ thọ
[8] Tức xả thọ (cảm thọ trung tính)
[9] Tức các cảm xúc vui, buồn, không vui xuất hiện
[10] Tức các cảm xúc tan biến, mất đi
[11] Tức là 5 triền cái
[12] Tức là ngũ thủ uẩn
[13] Tức là nhóm sắc
[14] Tức là nhóm thọ
[15] Tức là nhóm tưởng
[16] Tức là nhóm hành
[17] Tức là nhóm thức
[18] Sự gút mắc không thông của tâm thức
[19] Tức thất giác chi
[20] Quán xét chọn đúng phương pháp
[21] Tức là sự siêng năng đúng cách
[22] Tức sự an vui
[23] Tức sự nhẹ nhàng thư thái
[24] Tức sự buông bỏ không dính mắc
[25] Tức Tứ diệu đế
[26] Tức quả vị A la hán
[27] Tức thánh quả bất lai (không còn sanh trở lại thế gian)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Kinh Dược Sư (tiếng Việt, dễ đọc dễ hiểu)
Kinh PhậtKinh Dược Sư hay còn gọi là Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh. Trì tụng kinh này sẽ giúp tiêu bớt ác nghiệp, tăng trưởng nghiệp lành. Việt dịch: HT. Thích Huyền Dung, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng dịch.
Kinh Phổ Môn (tiếng Việt, dễ đọc dễ hiểu)
Kinh PhậtKinh Phổ Môn là bài kinh nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ tát Quan Thế Âm, còn được biết đến với tên gọi là kinh Quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang.
Xem thêm
















